Công bố của Việt Nam về Luật và Quy định về cơ chế giá mua điện tái tạo

Chính phủ Việt Nam đã công bố Nghị định số 19/2023/TT-BCT vào ngày 1 tháng 11 năm 2023, thiết lập cơ chế giá mua điện tái tạo, chính thức có hiệu lực từ ngày 19 tháng 12 năm 2023 và sẽ được công bố hàng năm. Các loại năng lượng áp dụng cho giá bao gồm: điện mặt trời mặt đất, điện gió nổi, điện gió trong đất liền và điện gió ngoài khơi; trong đó, giá điện mặt trời sẽ thay đổi tùy thuộc vào khu vực, bao gồm Bắc, Trung và Nam. Các dự án năng lượng mặt trời đã đi vào hoạt động trước ngày 1 tháng 1 năm 2021 và dự án điện gió hoạt động trước ngày 1 tháng 11 năm 2021 sẽ không bị ràng buộc bởi cơ chế giá mới.

EVN từ chối đàm phán mua điện tái tạo chuyển tiếp

Tóm tắt tình hình trước đó:

Bộ Công Thương Việt Nam đã công bố mức giá mua điện tái tạo từ năng lượng mặt trời là 9.35 cent Mỹ/ kWh, tương đương khoảng 2.86 đồng/kWh, áp dụng cho các dự án hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm 2020. Mức giá mua điện tái tạo từ năng lượng gió được công bố vào năm 2018 (gió đất liền: 8.5 cent Mỹ/kWh, tương đương khoảng 2.4 đồng/kWh; gió ngoài khơi: 9.8 cent Mỹ/kWh, tương đương khoảng 2.7 đồng/kWh), áp dụng cho các trạm gió hoàn thành trước ngày 31 tháng 10 năm 2021, cũng như cho những dự án chuyển giao chưa kịp hoàn thành trước các hạn chót nêu trên.

Giá điện sản xuất (VND/kWh) = Giá trung bình cố định (VND/kWh) + Chi phí quản lý và vận hành cố định (VND/kWh)

Trong đó, cách tính giá trung bình cố định như sau:

Giá trung bình cố định = Vốn đầu tư điều chỉnh hàng năm cho xây dựng (không bao gồm VAT) / Số điện được giao trong nhiều năm trung bình (kWh)

Cách tính chi phí quản lý và vận hành cố định như sau:

Chi phí quản lý và vận hành cố định = Tổng chi phí quản lý và vận hành cố định (VND) / Số điện được giao trong nhiều năm trung bình (kWh)

Các tham số khác bao gồm tuổi thọ vận hành của nhà máy điện (20 năm), tỷ lệ nợ ngoại tệ và đồng Việt Nam (80/20), tỷ lệ nợ và vốn cổ phần (70/30) cùng với thời hạn trung bình trả nợ (10 năm) và những yếu tố khác.

Việc đánh giá “Công trình điện mặt trời và điện gió tiêu chuẩn” sẽ được EVN chịu trách nhiệm thực hiện trước ngày 1 tháng 11 hàng năm, để làm cơ sở cho việc tính toán giá cước, và sau đó nộp các tính toán liên quan đến Cơ quan Quản lý Điện lực Việt Nam (ERAV), và được ERAB chấp thuận và công bố.

Theo báo cáo tiếng Anh liên quan, giá cước này không áp dụng cho toàn bộ chu kỳ hoạt động (như là 20 năm), mà là áp dụng giá cước khác nhau mỗi năm, điều này sẽ tăng sự không chắc chắn trong đầu tư phát triển. Hơn nữa, giá cước năng lượng mặt trời phụ thuộc vào khu vực và sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu đầu tư của các doanh nghiệp; cuối cùng, trong giá mua điện cũng không có cơ chế điều chỉnh giá dựa trên biến động tỷ giá.

Nguồn: Vocus | Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA | Liên kết

10 dấu ấn nổi bật trong phát triển kinh tế-xã hội năm 2023

1. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng kinh tế toàn cầu

Kinh tế – xã hội tiếp tục xu hướng phục hồi, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước, cơ bản đạt được mục tiêu tổng quát đề ra và đạt nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực; tiếp tục là điểm sáng của kinh tế toàn cầu; đạt và vượt 10/15 chỉ tiêu.

Năm 2023, Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế ghi nhận là quốc gia đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát thấp hơn mục tiêu Quốc hội đề ra; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát; tăng trưởng được thúc đẩy; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Tăng trưởng GDP cả năm khoảng 5%, là nỗ lực rất lớn trong bối cảnh tình hình chung toàn cầu rất khó khăn, giúp nền kinh tế nước ta vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới. Khu vực nông nghiệp là điểm sáng và tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế trong khó khăn; khu vực dịch vụ phát triển khá sôi động, khu vực công nghiệp và xây dựng từng bước phục hồi.

Nhiều tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao kết quả và triển vọng của nền kinh tế nước ta và dự báo Việt Nam sẽ phục hồi nhanh trong thời gian tới. Fitch Ratings đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+ (từ mức BB), với triển vọng “Ổn định”. Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam đạt 431 tỷ USD, tăng 1 bậc lên thứ 32/100 thương hiệu quốc gia mạnh trên thế giới.

2. Đối ngoại, hội nhập đạt những thành tựu lịch sử

Việt Nam tổ chức đón, tiếp thành công Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình 
Việt Nam tổ chức đón, tiếp thành công Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden

Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai sôi động, bài bản, liên tục, thành công toàn diện và là điểm sáng nổi bật của năm 2023, với sự kết hợp nhịp nhàng, chặt chẽ, hiệu quả của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân.

Nhiều thành tựu đối ngoại quan trọng có tính lịch sử, tạo thời cơ, vận hội mới để phát triển đất nước; nổi bật là công tác chuẩn bị và tổ chức đón, tiếp thành công các chuyến thăm chính thức cấp nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden. Một loạt chuyến thăm và làm việc ở nước ngoài của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã làm sâu sắc thêm quan hệ tốt đẹp với nhiều đối tác quan trọng. Hình ảnh, tầm vóc, uy tín và vị thế Việt Nam được nâng lên tầm cao mới.

Đến nay, nước ta đã có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 05 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và nhiều nước G20; góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; duy trì được môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3. Chuyển biến vượt bậc trong phát triển hệ thống đường cao tốc

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, đã hoàn thành, đưa vào sử dụng 729 km đường bộ cao tốc, nâng tổng số km đường cao tốc đưa vào khai thác đến nay là 1.892 km

Việc thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, có sự chuyển biến vượt bậc, đặc biệt là hệ thống đường bộ cao tốc.

Năm 2023 là năm có nhiều dự án cao tốc hoàn thành và khởi công mới nhất trong hơn một thập kỷ qua. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, đã hoàn thành, đưa vào sử dụng 729 km đường bộ cao tốc, nâng tổng số km đường cao tốc đưa vào khai thác đến nay là 1.892 km, đồng thời đang thi công khoảng 1.700 km cao tốc, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mục tiêu cả nước có khoảng 3.000 km đường cao tốc vào năm 2025, 5.000 km cao tốc vào năm 2030.

Về hàng không, hoàn thành đưa vào khai thác Nhà ga hành khách T2, cảng hàng không Phú Bài, Điện Biên; xử lý quyết liệt, dứt điểm vướng mắc để khởi công nhà ga hành khách T3 – Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành… bảo đảm chất lượng, tiến độ yêu cầu.

4. Xây dựng, hoàn thiện thể chế được chú trọng xứng tầm đột phá chiến lược

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 12/2023

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách được chú trọng xứng tầm đột phá chiến lược với nhiều đổi mới trong chỉ đạo, cách làm. Chính phủ đã nhận được sự chia sẻ, đồng hành, phối hợp chặt chẽ Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trong năm 2023, Quốc hội đã thông qua 16 luật, 29 Nghị quyết và cho ý kiến 18 dự án luật. Chính phủ đã tổ chức 10 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật, cho ý kiến đối với 47 nội dung, tập trung hoàn thiện, trình Quốc hội dự án Luật Đất đai (sửa đổi). Chính phủ ban hành 86 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 29 quyết định quy phạm. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước được triển khai quyết liệt, có hiệu quả; trong đó tập trung cắt giảm, đơn giản hóa, phân cấp giải quyết thủ tục hành chính. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy; chấn chỉnh tình trạng cán bộ, công chức đùn đẩy, sợ trách nhiệm, sợ sai trong thực thi công vụ, đã ban hành Nghị định của Chính phủ về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Công tác quy hoạch được đẩy nhanh, 108/111 quy hoạch đã hoàn thành việc lập, thẩm định, phê duyệt, chất lượng được nâng lên; đã ban hành Quy hoạch tổng thể quốc gia và nhiều quy hoạch ngành, lĩnh vực, tỉnh.

5. Xuất khẩu nông sản lập đỉnh, mở rộng thêm các thị trường mới

Trong bối cảnh thị trường gặp nhiều khó khăn, song tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn ước đạt 683 tỷ USD, xuất siêu khoảng 26 tỷ USD, trong đó xuất khẩu nông sản, nhất là các mặt hàng rau quả và gạo lập đỉnh mới với nhiều con số kỷ lục.

Cụ thể, nhóm nông sản đạt 24,3 tỷ USD, tăng 17% so với năm ngoái. Có 6 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu hơn 3 tỷ USD gồm cà phê, gạo, rau quả, hạt điều, thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ.

Xuất khẩu rau quả đạt 5,6 tỷ USD, mức cao kỷ lục và vượt xa kỳ vọng ban đầu “cả năm 4 tỷ USD”. Trong 11 tháng, xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng lập kỷ lục với hơn 7,7 triệu tấn gạo cho giá trị hơn 4,4 tỷ USD, tăng hơn 36% so với năm ngoái. Hạt gạo Việt đã vượt qua các đối thủ để giành vị trí số 1 cuộc thi gạo ngon nhất thế giới.

Với việc ký kết Hiệp định thương mại tự do song phương (VIFTA) với Israel, đến nay, Việt Nam đã ký và tham gia 16 FTA, đang tiếp tục đàm phán 3 FTA nữa là Việt Nam-EFTA (Thụy Sĩ, Na Uy, Iceland, Liechtenstein), ASEAN-Canada, và Việt Nam-UAE.

6. Kỷ lục trong giải ngân vốn FDI và thành lập doanh nghiệp mới

 

Tính đến ngày 20/12/2023, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam (FDI) đạt gần 36,61 tỷ USD, tăng 32,1% so với cùng kỳ, là năm cao thứ ba trong giai đoạn 2008 đến nay. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 23,18 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm 2022, là mức giải ngân đạt kỷ lục từ trước tới nay trong bối cảnh thương mại đầu tư toàn cầu bị thu hẹp. Xếp hạng môi trường kinh doanh Việt Nam cũng tăng 12 bậc trên toàn cầu.

Hoạt động đăng ký kinh doanh năm 2023 rất ấn tượng với kỷ lục gần 160.000 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 7,2% so với năm 2022, gấp 1,2 lần mức bình quân giai đoạn 2017-2022 và tăng 4,6% so với ước thực hiện cả năm 2023.

Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2023 cũng đạt hơn 58.400. Như vậy, số doanh nghiệp gia nhập và quay lại thị trường tiếp tục ở mốc hơn 200.000, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2022 và gấp 1,3 lần số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong năm.

7. Quyết liệt thúc đẩy những ngành, lĩnh vực mới nổi

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu cắt băng khánh thành Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia. NIC cơ sở Hòa Lạc với thiết kế hình cánh chim đại bàng cất cánh, là biểu tượng cho sứ mệnh hiện thực hóa ý tưởng sáng tạo, thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển vươn xa

Năm 2023 ghi những dấu ấn mới trong cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển những ngành, lĩnh vực mới nổi, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ.

Chuyển đổi số quốc gia được tích cực thúc đẩy, ước cả năm 2023 tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 15% GDP. Đề án phát triển, ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử (Đề án 06) được chỉ đạo và thực hiện quyết liệt với quyết tâm cao và đạt nhiều kết quả ấn tượng, góp phần hạn chế tiêu cực, tiết kiệm thời gian, công sức cho người dân, doanh nghiệp, là một “điểm sáng” trong chuyển đổi số ở nước ta.

Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển mạnh; khánh thành Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC); tập trung xây dựng, hoàn thiện 03 Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo quốc gia tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam xếp hạng 46/132, tăng 02 bậc so với năm 2022.

Năm 2023 cũng đánh dấu bước nhảy vọt của Việt Nam trong lĩnh vực bán dẫn với hàng loạt thỏa thuận, dự án hợp tác phát triển với các đối tác hàng đầu, những tập đoàn, doanh nghiệp khổng lồ trên thế giới.

Việt Nam triển khai quyết liệt các chương trình hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm phát thải, chuyển đổi năng lượng theo tuyên bố chính trị về chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP), lần đầu tiên bán tín chỉ carbon và phát hành trái phiếu xanh, thể hiện trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế đưa phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

8. Dấu ấn tháo gỡ khó khăn, khơi thông nguồn lực

Đầu tư công được cơ cấu lại theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho các dự án có tính lan tỏa cao, tạo động lực phát triển

Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung rà soát, phát hiện, xử lý kịp thời những bất cập, khó khăn, vướng mắc, cả về quy định pháp luật, cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện, khơi thông nguồn lực, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, sinh kế cho người dân, bảo đảm đời sống cho người lao động.

Ước giải ngân đầu tư công cả năm khoảng 667,882 nghìn tỷ đồng, đạt 94,3% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cao hơn cùng kỳ năm 2022 khoảng 2,88% (91,42%), về số tuyệt đối cao hơn khoảng 137,6 nghìn tỷ đồng. Đầu tư công được cơ cấu lại theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho các dự án có tính lan tỏa cao, tạo động lực phát triển.

Chính phủ quyết liệt xử lý, tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, bất cập, phát triển các loại thị trường đồng bộ, an toàn, lành mạnh, bền vững và hội nhập; việc ổn định và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản khởi sắc tích cực hơn. Tiếp tục xử lý nợ xấu, cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, nhất là 05 ngân hàng yếu kém.

Tập trung cơ cấu lại, nâng cao, cải thiện hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; tiếp tục xử lý hiệu quả bước đầu 8/12 dự án, doanh nghiệp thua lỗ đã kéo dài nhiều năm; hoàn thành và đưa vào vận hành nhiều dự án điện lớn, quan trọng sau thời gian dài gián đoạn.

9. Đạt và vượt toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch về xã hội

Việc tổ chức kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương về Văn hóa Việt Nam và Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam lần đầu tiên được tổ chức, là những sự kiện quan trọng để tiếp tục cụ thể hóa, triển khai chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Đảng Nhà nước về phát triển văn hóa, đặc biệt là những chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển, đạt kết quả rõ nét hơn. Toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch về xã hội đều đạt và vượt mục tiêu đề ra, thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta, không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.

Trước khó khăn của nền kinh tế, Quốc hội, Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách miễn, giảm, gia hạn các loại thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất. Tổng trị giá của các chính sách này khoảng gần 200 nghìn tỷ đồng và tính đến tháng 11, đã miễn, giảm, gia hạn trên 172 nghìn tỷ đồng (trong đó miễn, giảm khoảng 65 nghìn tỷ đồng). Tăng thu, tiết kiệm chi, trích lập quỹ tiền lương (đến nay được khoảng 560 nghìn tỷ đồng), bảo đảm đủ nguồn để cải cách tiền lương trong 3 năm 2024 – 2026.

Công tác bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo cho đời sống người lao động, nhất là các nhóm yếu thế, đối tượng chính sách tiếp tục được đẩy mạnh. Đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện, thu nhập bình quân của người lao động tăng 6,8%; trên 94% số hộ gia đình đánh giá có thu nhập ổn định hoặc cao hơn cùng kỳ năm 2022. Theo Báo cáo Hạnh phúc thế giới vào tháng 3/2023 của Liên Hợp Quốc, Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 12 bậc, từ vị trí 77 lên vị trí 65 trong bảng xếp hạng toàn cầu.

Việc tổ chức kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương về Văn hóa Việt Nam và Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam lần đầu tiên được tổ chức, là những sự kiện quan trọng để tiếp tục cụ thể hóa, triển khai chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Đảng Nhà nước về phát triển văn hóa, đặc biệt là những chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021.

10. Đẩy mạnh và tăng cường công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực

Công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, khẳng định đây là xu thế tất yếu, không thể đảo ngược được, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước. Có nhiều bước tiến mới trong điều tra, khám phá, xét xử nhiều vụ án lớn; đã khởi tố mới, điều tra nhiều vụ án tham nhũng, tiêu cực đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội rất quan tâm xảy ra trong những lĩnh vực chuyên môn sâu, hoạt động khép kín, có sự đan xen giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước mà từ trước tới nay chưa xử lý được, như: Tiếp tục điều tra mở rộng giai đoạn 2 vụ án liên quan đến Công ty Việt Á; vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao); các vụ án xảy ra tại Tập đoàn FLC; Tân Hoàng Minh như: vụ án xảy ra tại Ngân hàng SCB, Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Công ty An Đông…; xử lý nhiều bị can là cán bộ cấp cao, cả đương chức và nghỉ hưu theo tinh thần “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, dù bất kể đó là ai”

Nguồn:Chinh phu |Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA|Liên kết

 

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới

Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua vào năm 1987, dòng vốn FDI đã không ngừng chảy vào Việt Nam. Trong hơn 35 năm, Việt Nam đã tạo dựng vị thế và trở thành điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư trên khắp thế giới.

Ảnh internet.

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ thế giới

Từ con số 2 triệu USD năm 1988, vốn FDI “đổ” vào Việt Nam đã lên đến 524 tỷ USD ghi nhận cuối năm 2022. Với hơn 36.000 dự án FDI đang hoạt động, Việt Nam đã chứng tỏ được khả năng trong thu hút và quản lý đầu tư nước ngoài.

Nguồn vốn FDI dồi dào mang đến cho Việt Nam một hình ảnh mới trên “bản đồ” thương mại. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI không những là mắt xích quan trọng, mà còn tạo đòn bẩy để Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, điều này được thể hiện khi khu vực FDI luôn là đầu tàu dẫn dắt xuất khẩu của Việt Nam.

Tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng nhanh chóng, từ mức 30% vào năm 1997 – khi Việt Nam gia nhập ASEAN lên 65% giai đoạn 2011-2015, khoảng 71% giai đoạn 2016-2020 (theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

Thêm vào đó, thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp FDI trong năm 2022 đạt 506,83 tỷ USD, tăng 9,3% so với năm 2021. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của khối doanh nghiệp FDI đạt 273,63 tỷ USD, tăng 11,6% so với năm 2021 và chiếm 73,7% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới. Ảnh internet.

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ thế giới

Trị giá nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI trong năm 2022 đạt 233,2 tỷ USD, tăng 6,7% so với năm 2021, chiếm 65% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước. Cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh nghiệp FDI năm 2022 lên mức thặng dư 40,42 tỷ USD.

Khu vực FDI chiếm ưu thế trong giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam. Điều này thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp FDI tại đất nước hình chữ S và đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp này vào nền kinh tế Việt Nam.

Vai trò của khu vực FDI thêm quan trọng, nhất là trong việc nâng cao trình độ công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ và chuyển giao kỹ năng quản lý cho người Việt Nam, thúc đẩy sự đổi mới công nghệ đối với các doanh nghiệp trong nước. Từ đó, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam được nâng lên trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Một trong những hạn chế lớn nhất trong hành trình này là sự thiếu liên kết giữa nhóm doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước. Doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia được vào hệ sinh thái và chuỗi giá trị của các doanh nghiệp đầu chuỗi và doanh nghiệp FDI.

Nhóm nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) nhận thấy, sau nhiều năm đẩy mạnh thu hút FDI, Việt Nam chủ yếu hình thành liên kết với một số doanh nghiệp FDI bằng hình thức liên kết dọc, bao gồm liên kết ngược và liên kết xuôi.

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới. Ảnh internet.
Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới. 

Việt Nam chủ yếu tham gia vào những mắt xích có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu, đa phần thâm dụng lao động và yêu cầu kỹ thuật thấp. Nhiều doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu để thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp FDI.

Trong các dự án FDI, hình thức nhà đầu tư nước ngoài liên doanh với doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm 13%, còn lại đều là 100% vốn ngoại, cho thấy rõ việc doanh nghiệp chưa thể theo chân “đại bàng” để cất cánh.

Để vừa thu hút và thúc đẩy mối liên kết giữa các doanh nghiệp Việt với doanh nghiệp FDI, cần chú ý bài toán nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất lao động cho doanh nghiệp trong nước; nhấn mạnh việc thiết lập liên kết vùng. Việc tạo ra sự kết nối giữa các vùng đang trở thành biện pháp quan trọng thúc đẩy phát triển cụm công nghiệp, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

Tiếp đó là đẩy mạnh chuyển giao công nghệ tiên tiến. Trong đó, Chính phủ cần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách liên quan đến đầu tư, chuyển giao công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường và phát triển bền vững. Về phía doanh nghiệp, cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm các cơ hội chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI, bao gồm các thỏa thuận mua bản quyền, phát minh hoặc thương quyền…

Cuối cùng, cần tập trung hoàn thiện chính sách hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu gắn với kết nối sản xuất và cung ứng giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp ở nước ngoài.

Nguồn: Thuong hieu va Cong luan | Liên kết

Tham khảo thêm dịch vụ của SIA | Liên kết

Đưa năng lượng tái tạo trở thành trụ cột kinh tế quan trọng của Việt Nam

Quy hoạch Điện VIII (PDP8) được Việt Nam phê duyệt gần đây đã đặt ra các mục tiêu về năng lượng tái tạo đầy tham vọng vào năm 2030. Các mục tiêu được đề cập trong PDP8 chủ yếu tập trung vào việc thúc đẩy năng lượng tái tạo đồng thời giảm sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu hóa thạch như than đá.

VPUB – Thúc đẩy tiềm năng phát triển điện gió tại địa phương - CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH ĐIỆN BIÊN

Theo các chuyên gia của McKinsey, mục tiêu này khiến Việt Nam đối mặt một vấn đề nan giải đó là các dự án năng lượng tái tạo hiện tại không phải lúc nào cũng có khả năng được cấp vốn do quy định chồng chéo.

Tuy nhiên, điều kiện thị trường hiện tại lại mang đến cho ngành năng lượng Việt Nam một cơ hội có một không hai. Cụ thể, thay vì chỉ tập trung đầu tư vào Trung Quốc, nhiều nhà sản xuất trên thế giới hiện đang tích cực đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ sang các quốc gia láng giềng, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam có thể triển khai nhiều dự án năng lượng tái tạo hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng tái tạo của khách hàng thương mại và công nghiệp (C&I), cũng như hỗ trợ cho các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Theo McKinsey, nếu có thể nắm bắt cơ hội này và giải quyết những thách thức đang tồn tại, Việt Nam có tiềm năng dẫn đầu khu vực về công suất lắp đặt các dự án năng lượng tái tạo cũng như khả năng sản xuất năng lượng bền vững.

Là một phần trong thông qua việc thúc đẩy PDP8 cho năng lượng tái tạo, Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để đạt được điều này, Việt Nam cần nhanh chóng tăng cường kết hợp năng lượng tái tạo để có khả năng khử carbon trong ngành điện khoảng 78%.

May mắn là tiềm năng về năng lượng tái tạo ở Việt Nam vô cùng lớn vì đây là quốc gia phù hợp nhất ở Đông Nam Á để phát triển năng lượng gió và mặt trời, với công suất tiềm năng đạt 1.000 gigawatt (GW).

Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên mang lại tiềm năng lớn về năng lượng gió và năng lượng mặt trời

Để nắm bắt được cơ hội, Việt Nam cần tăng cường đầu tư, xây dựng và tích hợp năng lượng mặt trời và năng lượng gió để cho phép quốc gia cung cấp 50 hoặc 100% năng lượng tái tạo (RE50/RE100) theo cách hiệu quả về mặt kinh tế.

Đưa năng lượng tái tạo trở thành trụ cột kinh tế quan trọng của Việt Nam - Ảnh 2.

Mục tiêu công suất nguồn điện của Việt Nam trong Quy hoạch Điện 8 (Đơn vị: Gigawatts – Gwh)

Việt Nam chuyển hướng sang năng lượng tái tạo: Nắm bắt cơ hội dẫn đầu về phát triển bền vững

Nếu không sớm chuyển sang năng lượng tái tạo, Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với những rủi ro sau:

Mất điện liên tục và rủi ro về an ninh năng lượng

Nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng và điều kiện thời tiết khắc nghiệt đã ảnh hưởng không nhỏ đến Việt Nam. Theo McKinsey, năng lượng tái tạo mang lại nguồn an ninh năng lượng độc lập, không phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu.

Gần đây, Việt Nam đã phải đối mặt với tình trạng thiếu điện và mất điện do nắng nóng cực độ, hạn hán và mực nước ở các nhà máy thủy điện thấp kỷ lục. Trước tình hình đó, EVN đã tiến hành cắt điện luân phiên trên khắp cả nước , đặc biệt ở khu vực phía Bắc. Điều này đã ảnh hưởng đến người dân, ngành du lịch và các khu công nghiệp.

Báo cáo của McKinsey nhận định, Việt Nam cần mở rộng phát triển năng lượng tái tạo càng nhanh càng tốt để đạt được cam kết của Chính phủ trong việc đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050 cũng như các mục tiêu được đề cập trong PDP8. Theo đó, PDP8 đặt mục tiêu các nguồn năng lượng gió, mặt trời và các nguồn tái tạo khác (trừ thủy điện), chiếm ít nhất 32% nhu cầu năng lượng của đất nước vào năm 2030.

Nguy cơ mất lợi thế

Nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng cũng như lực lượng lao động dồi dào, nhiều công ty đã lựa chọn Việt Nam là một giải pháp để đa dạng hóa chuỗi cung ứng thay vì phụ thuộc vào Trung Quốc. Tuy nhiên, theo các chuyên gia của McKinsey, Việt Nam có nguy cơ đánh mất lợi thế này nếu không kịp thời đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng tái tạo ngày một tăng của các doanh nghiệp nước ngoài.

Nhiều nhà sản xuất lớn nhất thế giới đã cam kết sử dụng 100% năng lượng tái tạo cho hoạt động sản xuất của công ty, chẳng hạn như những doanh nghiệp thuộc nhóm sáng kiến toàn cầu RE100 – Chiến dịch nhằm mục đích tập hợp các công ty trong danh sách Global Fortune 500 để cùng thực hiện cam kết sử dụng 100% năng lượng tái tạo.

Nếu không thể đảm bảo đủ năng lượng tái tạo, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ khó có thể đầu tư vào Việt Nam. Vì vậy, dòng vốn đầu tư sẽ đổ vào nhiều hơn nếu Việt Nam có thể cung cấp năng lượng cho nhóm RE100.

Rủi ro từ nền tảng kinh tế hiện nay của Việt Nam

Theo McKinsey, các nền tảng kinh tế hiện nay của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng nếu không triển khai dự án năng lượng Theo McKinsey, các nền tảng kinh tế hiện nay của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng nếu không triển khai dự án năng lượng tái tạo trên quy mô lớn. Lý do bởi các sản phẩm không được sản xuất bởi nguồn năng lượng sạch có thể sẽ phải chịu thêm thuế carbon.

Ví dụ, hơn 10 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng bởi các quy định liên quan đến thuế biên giới carbon vào năm 2030. Hơn nữa, nếu các quốc gia khác ban hành các loại thuế tương tự, con số này có thể lên đến 20 tỷ USD. Trường hợp danh sách các sản phẩm sản xuất phải tuân thủ theo quy định được mở rộng ngoài các sản phẩm công nghiệp, ít nhất 200 tỷ USD giá trị kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam có thể gặp rủi ro.

Điện mặt trời - Pin mặt trời

Mối nguy hiểm hữu hình từ biến đổi khí hậu

Việt Nam phải đối mặt với rủi ro hữu hình do biến đổi khí hậu. Trong đó, các thành phố là những khu vực dễ bị tổn thương bởi những rủi ro đến từ biến đổi khí hậu. Chẳng hạn, nguy cơ ngập lụt tại Thành phố Hồ Chí Minh có thể tăng gấp 10 lần cho đến năm 2050. Không chỉ vậy, trong trường hợp mực nước biển dâng lên mức 180cm, 66% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh có thể chìm trong nước. Những rủi ro về biến đổi khí hậu có thể có thể khiến 40% diện tích thành phố đối mặt với tình trạng ngập lụt, dẫn tới thiệt hại về kinh tế và cơ sở hạ tầng có thể lên tới 15-20 tỷ USD.

Nếu Việt Nam không nhanh, cơ hội sẽ thuộc về các nước láng giềng

Trong khi các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam có dấu hiệu tụt hậu thì các nước láng giềng đang bắt đầu đưa ra các giải pháp tiết kiệm chi phí cho các dự án năng lượng tái tạo. Ví dụ, Ấn Độ đã đặt mục tiêu đạt 500 GW công suất năng lượng tái tạo vào năm 2030 và đã ban hành Đạo luật Điện lực năm 2003. Theo đó, quốc gia này đã mở đường cho các doanh nghiệp tiếp cận với các thỏa thuận mở và hợp đồng mua bán điện (PPA).

Samsung đang nhắm đến việc đưa Ấn Độ trở thành trung tâm sản xuất điện thoại thông minh. Không chỉ vậy, Foxconn cũng đang thảo luận để khởi động một nhà máy ở bang Tamil Nadu của nước này.

Malaysia cũng là một ví dụ bên cạnh Ấn Độ. Cụ thể, để đạt được mục tiêu sử dụng 70% năng lượng tái tạo vào năm 2050, quốc gia này đã ban hành các hợp đồng mua bán điện ảo (VPPA) cho phép người tiêu dùng được sử dụng nguồn điện lớn hơn 1 megawatt (MW).

Ngược lại, với mức giá hiện tại, các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam thường không mang lại hiệu quả kinh tế nhất quán, gây bất lợi cho các nhà phát triển. Việt Nam vẫn chưa cho phép các hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPAs) cũng như chưa thiết lập các cơ chế (bao gồm cả cơ chế đấu giá) để mở đường cho các dự án năng lượng tái tạo. Giá năng lượng cao và tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo thấp ở Việt Nam có thể dẫn đến gánh nặng tài chính cho người tiêu dùng và nguy cơ mất vốn đầu tư nước ngoài.

Làm thế nào để khu vực công và tư nhân của Việt Nam có thể cùng giải quyết các vấn đề về năng lượng và đảm bảo tương lai kinh tế của Việt Nam?

Bên cạnh những thách thức để phát triển năng lượng tái tạo hiệu quả, những quan sát và nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng Việt Nam có thể giải quyết vấn đề nan giải về năng lượng và đảm bảo tương lai kinh tế thông qua việc thúc đẩy hợp tác giữa khu vực công và tư nhân.

Sáu phương án thực tiễn tổng quát tốt nhất có thể mở khóa năng lượng tái tạo bao gồm:

Thứ nhất, chấp thuận cơ chế DPPAs để cho phép giao dịch năng lượng tái tạo bên ngoài cơ sở. Điều này có thể đảm bảo khả năng sinh lợi và sinh lời của năng lượng tái tạo thông qua việc đo lường mạng và truy cập mở. Bên cạnh đó, DPPAs sẽ loại bỏ các hạn chế, người mua có thể mua năng lượng sạch trực tiếp từ các nhà phát triển tư nhân (tức là ở bên ngoài địa điểm của người tiêu dùng) thay vì mua năng lượng hỗn hợp từ EVN. Điều này có thể khuyến khích các nhà phát triển ở lại và đầu tư thêm vào Việt Nam.

Thứ hai, cam kết quy định và mục tiêu rõ ràng. Cần có quy định để tạo ra sự công bằng trong ngành và tính minh bạch cho các nhà phát triển. Cụ thể:

(1) Sửa đổi và cải thiện các hợp đồng mẫu về mua bán điện (PPAs) trong việc bồi thường khi chấm dứt và cắt giảm. Ví dụ trong trường hợp Tập đoàn Điện lực Việt Nam không thể mua năng lượng bao tiêu.

(2) Tạo cơ chế trao thầu các dự án năng lượng tái tạo mới bao gồm phân bổ địa điểm và giá bao tiêu, đặc biệt đối với điện gió ngoài khơi.

(3) Thiết lập các mục tiêu phát triển hydro và các nhiên liệu thay thế khác, cùng với các chính sách ưu đãi cho các ngành này.

Thứ ba, đầu tư vào lưới điện. Các nhà phát triển và nhà đầu tư có thể bị thu hút bởi các dự án mới nếu lưới điện được cập nhật để cho phép các dự án JETP và các khoản đầu tư khác. Khả năng khu vực tư nhân tham gia phát triển và vận hành lưới điện cũng có thể giúp Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư.

Thứ tư, hoàn tất đàm phán với nhiều Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á để xuất khẩu năng lượng tái tạo. Khu vực công có thể xác định các quy tắc cho các đơn đăng ký yêu cầu đề xuất và các biên bản ghi nhớ với các quốc gia lân cận.

Thứ năm, thí điểm các khu công nghiệp RE100 tại các tỉnh đang đóng vai trò là “ngọn hải đăng” dẫn đường. Các địa phương có thể nắm giữ vị trí dẫn đầu về năng lượng tái tạo và thu hút FDI bằng cách khuyến khích thành lập khu công nghiệp RE100. Điều này đòi hỏi sự hợp tác của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các đơn vị liên quan để thu hút cả các nhà phát triển năng lượng tái tạo và khách hàng C&I.

Thứ sáu, giới thiệu các yếu tố hỗ trợ chính khác. Khi đến giai đoạn thực hiện, Việt Nam có thể xem xét áp dụng các biện pháp như thuế carbon và thị trường carbon càng sớm càng tốt, từ đó khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo với mức giá tương đối thấp hơn.

Những bước đi táo bạo của khu vực tư nhân

Phối hợp với khu vực công, các doanh nghiệp tư nhân có thể hành động ngay lập tức để nắm bắt cơ hội phát triển. Họ có thể xem xét bốn quyết định chiến lược lớn:

Thứ nhất, các nhà phát triển cam kết xây dựng đường dẫn điện GW. Điều này có thể giúp các nhà cung cấp đầu tư vào hệ sinh thái chuỗi giá trị địa phương và giảm chi phí thông qua quy mô kinh tế. Ngoài ra, quyết định này có thể sẽ khuyến khích chính quyền địa phương phát triển lực lượng lao động địa phương.

Thứ hai, khách hàng C&I cam kết bao tiêu thông qua DPPAs. Khách hàng của C&I có thể đảm bảo nhu cầu và mức tiêu thụ, giúp các dự án RE100 ban đầu ngay lập tức có khả năng được cấp vốn—đặc biệt nếu họ sẵn sàng trả phí bảo hiểm xanh cho các điện tử tái tạo 24/7.

Thứ ba, các nhà phát triển và nhà cung cấp giảm chi phí thông qua thiết kế tiêu chuẩn hóa. Khi các nhà phát triển đã cam kết với quy mô của quy trình, họ có thể chuẩn hóa một thiết kế được tối ưu hóa trên các địa điểm khác nhau, cho phép vận hành thử nhanh chóng và giảm chi phí.

Thứ tư, các nhà phát triển và người tiêu dùng nắm bắt hạ nguồn công nghệ xanh. Các nhà phát triển có thể cân nhắc đầu tư vào (hoặc tạo ra) công nghệ xanh để đẩy nhanh hành trình sử dụng năng lượng tái tạo, chẳng hạn như hydro xanh hoặc sạc xe điện. Ngoài ra, người tiêu dùng có thể cam kết sử dụng công nghệ xanh, chẳng hạn như mức tiêu thụ và giá tiêu thụ hydro.

Sức mạnh của sự hợp tác

Với việc khu vực công và tư nhân hoạt động song song, Việt Nam có thể đạt được RE50 hoặc RE100 về mặt kinh tế trong ba khoảng thời gian.

Thứ nhất, trong vòng 12-18 tháng tới, quốc gia có thể thiết lập khung pháp lý và cam kết thực hiện, triển khai các mô hình thí điểm PPAs và DPPAs, kèm theo cam kết công khai về RE50 và RE100.

Thứ hai, Việt Nam có thể tăng đáng kể công suất lắp đặt năng lượng tái tạo và tiếp tục thu hút FDI trong vòng 5-7 năm tới. Điều này có thể đạt được bằng cách chuyển sang RE50 hoặc RE100 ở một số tỉnh và tạo điều kiện cho các nguồn năng lượng tái tạo dư thừa .

Thứ ba, trong vòng một thập kỷ, quốc gia này có thể rút ngắn thời gian đạt được mục tiêu đưa phát thải ròng về 0 bằng việc sử dụng năng lượng tái tạo trên khắp đất nước. Thực hiện được các khuyến nghị trên, Việt Nam có thể dẫn đầu Đông Nam Á, trở thành nền kinh tế năng lượng tái tạo có giá trị cao nhất.

Ưu nhược điểm của năng lượng tái tạo: Nhìn từ thực tế

Mặc dù hành trình này còn nhiều thách thức, nhu cầu cấp thiết của Việt Nam trong việc phát triển nguồn năng lượng tái tạo nhằm đạt được các mục tiêu đầy tham vọng của PDP8 có thể được đáp ứng. Điều này có thể đạt được khi khu vực công mở đường bằng cách thiết lập các quy định rõ ràng và giảm thiểu rủi ro dự án cho các nhà phát triển, đồng thời khu vực tư nhân cam kết chuyển đổi quy mô lớn với các dự án nhiều GW, tạo ra hệ sinh thái năng lượng tái tạo tại địa phương ở Việt Nam, và sẵn sàng kéo đòn bẩy giảm chi phí.

Nguồn:Cafe F |Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA|Liên kết

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ

Ông Jensen Huang – Chủ tịch, CEO Tập đoàn Nvidia – đánh giá Việt Nam đã sẵn sàng cho sự phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) và nhấn mạnh sẽ hỗ trợ Việt Nam trong ngành công nghiệp bán dẫn.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 1

Sáng nay, ông Jensen Huang, Chủ tịch, Tổng giám đốc Tập đoàn Nvidia, tập đoàn sản xuất chip lớn nhất thế giới, thăm và làm việc tại Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) cơ sở Hòa Lạc.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 2

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng và Chủ tịch Nvidia Jensen Huang cùng đi xe điện, tham quan NIC cơ sở Hòa Lạc.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 3

Bộ trưởng cùng Chủ tịch Nvidia tham quan khuôn viên NIC trước khi bước vào tọa đàm.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 4

Ông Jensen Huang dùng điện thoại ghi lại quang cảnh.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 5

“Chúng ta đang trải qua một giai đoạn cực quan trọng trong ngành công nghệ. Một làn sóng mới đang tới và có thể là làn sóng lớn nhất từ trước tới nay”, ông Jensen Huang chia sẻ.

Tại tọa đàm, ông Jensen lý giải để có thể tận dụng được những làn sóng mới này, chúng ta cần 3 thành phần, gồm:

Việt Nam số

“Việt Nam đã sẵn sàng số hóa 100%. Các bạn đã có nhiều thập kỷ số hóa và người dân sẵn sàng sử dụng các nền tảng di động. Đó chính là tài sản về ngôn ngữ, văn hóa”, Chủ tịch Nvidia nói.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 6

Đội ngũ nhân sự

Theo ông Jensen, Việt Nam cũng có yếu tố thứ 2 đó là đội ngũ kỹ sư phần mềm có năng lực tốt.
“Trí tuệ nhân tạo là phần mềm, mà phần mềm do con người tạo nên. Việt Nam đang sẵn có nguồn tài nguyên giàu có là các kỹ sư phần mềm và các kỹ sư này đã sẵn sàng nhảy sang bước tiến mới như AI”, ông Jensen chia sẻ.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 7

Hạ tầng AI 

Yếu tố thứ ba là hạ tầng vì AI đòi hỏi các siêu máy tính xử lý và biến dữ liệu thành trí thông minh.

“Trong tương lai, các bạn cần siêu máy tính. Chúng ta đang sản xuất trí tuệ với các kỹ sư người Việt Nam, cho chính Việt Nam. Điều này đòi hỏi phải có hạ tầng AI”, ông nhấn mạnh.

Việt Nam có nền giáo dục và hạ tầng tốt, chỉ cần khích lệ các thế hệ mới để bước vào thế giới AI, khích lệ các chuyên gia, kỹ sư Việt Nam ở nước ngoài về quê hương.

“Vấn đề hiện giờ là cần năng cao kỹ năng và xây dựng 1 triệu chuyên gia AI. Đây sẽ là đội ngũ hùng hậu nhất trên thế giới. Chúng tôi sẵn sàng hợp tác với Việt Nam để nâng cao kỹ năng và hạ tầng AI”, ông Jensen khẳng định.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 8

Tuy nhiên, sau khi đã có đủ thành phần, Việt Nam cần có tầm nhìn và cam kết mạnh mẽ trong việc phát triển công nghệ mới. Đại diện Nvidia cho rằng từ đội ngũ kỹ sư hiện tại, Việt Nam có thể đào tạo nâng cao năng lực để phục vụ phát triển AI và Nvidia sẽ cùng tham gia quá trình này.

“Làn sóng mới này thực sự rất lớn, nhưng cũng rất nhanh. Chỉ cần 1 năm thôi, AI chúng ta vừa nhìn thấy đã xuất hiện trên tất cả câu chuyện của mọi người trên thế giới. Khi nó đang phát triển rất nhanh thì chúng ta cũng phải hành động rất nhanh”, Chủ tịch Nvidia cười nói.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 9

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề nghị Nvidia nghiên cứu, triển khai dự án đầu tư về bán dẫn và trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam. “Chính phủ Việt Nam cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Nvidia hoạt động tại đây”, ông nói.

Bộ trưởng cũng đề nghị Nvidia xem xét xây dựng cơ sở nghiên cứu và phát triển, phòng thí nghiệm về thiết kế chip bán dẫn tại khu công nghệ cao của Việt Nam.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 10

Đồng thời, Nvidia cũng được đề nghị tham gia tư vấn, hỗ trợ các cơ sở đào tạo về nguồn nhân lực, chuyên gia xây dựng các chương trình đào tạo, thực hành trong lĩnh vực bán dẫn, trí tuệ nhân tạo và tạo điều kiện cho các kỹ sư, học viên của Việt Nam có thể tham gia thực tập, làm việc tại Nvidia.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 11

Ngày 9/12 sau khi tới Hà Nội, tỷ phú công nghệ mặc thoải mái với áo phông, quần jean đen và cùng các nhân viên thưởng thức ẩm thực đường phố Việt. Ông cũng ghé một quán khác ở phố Hàng Nón và ăn phở bò, uống nước dừa.

Sẵn sàng cho ngành công nghiệp bán dẫn

Chủ tịch Tập đoàn NVIDIA cam kết thành lập pháp nhân tại Việt Nam và hỗ trợ Việt Nam phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp bán dẫn và trí tuệ nhân tạo

Ngày 11-12, ông Jensen Huang – Chủ tịch, Tổng Giám đốc Tập đoàn NVIDIA (Mỹ) – tập đoàn sản xuất chip lớn nhất thế giới, đã thăm và làm việc tại Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC; ở Hòa Lạc, Hà Nội).

Hội đủ 3 điều kiện

Tại NIC, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã giới thiệu với ông Jensen Huang về NIC – không gian đổi mới sáng tạo lớn nhất Việt Nam vừa khánh thành vào cuối tháng 10-2023, được vận hành và tổ chức các hoạt động góp phần thúc đẩy đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nhanh, bền vững dựa trên khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Chủ tịch NVIDIA đã tham quan không gian đổi mới sáng tạo của Việt Nam, đánh giá cao mô hình của NIC.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng và ông Jensen Huang sau đó đã tham dự tọa đàm chủ đề “Xu hướng phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo và cơ hội cho Việt Nam”. Tại tọa đàm, ông Jensen Huang đánh giá AI đang trở thành làn sóng mới và là điều kiện quan trọng cho sự phát triển của mọi quốc gia. Chủ tịch NVIDIA nhận định Việt Nam đã sẵn sàng cho công nghệ mới và sẽ đầu tư nâng cao năng lực về con người cũng như hạ tầng cho Việt Nam.

“Chúng tôi đã nói với Thủ tướng sẽ cam kết hết sức để biến Việt Nam thành quê hương thứ hai của NVIDIA. Chúng tôi sẽ thành lập pháp nhân ở Việt Nam” – ông Jensen Huang nhấn mạnh.

Theo Chủ tịch NVIDIA, để tận dụng làn sóng AI, các quốc gia cần 3 thành phần và ông nhận định Việt Nam đã có đủ. Thứ nhất, có “Việt Nam số”, khi phần lớn người dân trong nước sử dụng công nghệ, các nền tảng di động. Thứ hai, cần đội ngũ nhân lực lớn để phát triển AI và Việt Nam đã dần “tạo dựng một đội ngũ sẵn sàng cho công việc này”. Thứ ba, cần xây dựng một hạ tầng mới cho phát triển AI.

Với 3 thành phần này, Chủ tịch NVIDIA cho rằng Việt Nam cần có tầm nhìn và cam kết mạnh mẽ trong việc phát triển công nghệ mới. “Từ đội ngũ kỹ sư hiện tại, Việt Nam có thể đào tạo nâng cao năng lực để phục vụ phát triển AI và NVIDIA sẽ cùng tham gia quá trình này” – ông Jensen Huang nói.

Về kế hoạch phát triển của NVIDIA tại Việt Nam, ông Jensen Huang cho biết sẽ lập một trung tâm thiết kế tại Việt Nam.

Đề cập việc Việt Nam đã có rất nhiều nhà khoa học trong lĩnh vực máy tính làm việc trên khắp thế giới, đồng thời là một trong những nước xuất khẩu phần mềm lớn nhất, Chủ tịch NVIDIA nhận định Việt Nam có thể tạo ra “1 triệu kỹ sư AI” và là đội ngũ kỹ sư AI hùng hậu nhất thế giới.

Ông cũng khẳng định NVIDIA sẽ hợp tác với các đối tác trong nước để phát triển hạ tầng AI – gồm siêu máy tính, trung tâm dữ liệu, trung tâm nghiên cứu phát triển. Đây là thời điểm thích hợp để hai bên thiết lập và đẩy mạnh hợp tác nhằm tạo nên sự thịnh vượng.

“Chúng tôi cam kết thực hiện kế hoạch để Việt Nam trở thành quê hương thứ hai và thành lập pháp nhân tại Việt Nam” – ông Jensen Huang nói.

Sẵn sàng cho ngành công nghiệp bán dẫn- Ảnh 1.Ông Jensen Huang tham quan NIC. Ảnh: MINH PHONG

Hỗ trợ đào tạo nhân lực

Tại tọa đàm, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đề nghị NVIDIA nghiên cứu, triển khai dự án đầu tư về bán dẫn và trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam. Chính phủ Việt Nam cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi cho NVIDIA hoạt động tại đây và Việt Nam có một số lợi thế nhất định để phát triển lĩnh vực này.

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cũng đề nghị tập đoàn này hợp tác, đầu tư, xây dựng các trung tâm R&D, phòng thí nghiệm về thiết kế, phát triển sản phẩm vi mạch bán dẫn của NVIDIA tại NIC và các khu công nghệ cao. Cùng với đó, hợp tác, tư vấn, hỗ trợ NIC và các cơ sở đào tạo của Việt Nam về nguồn lực, chuyên gia xây dựng các chương trình đào tạo, thực hành trong lĩnh vực bán dẫn, AI. Đồng thời, tạo điều kiện cho các kỹ sư, học viên của Việt Nam có thể tham gia thực tập, làm việc tại NVIDIA.

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng mong muốn NVIDIA đồng hành với Việt Nam trong xây dựng vườn ươm doanh nghiệp ngành bán dẫn. Tư vấn cho Việt Nam hình thành các doanh nghiệp hỗ trợ cung cấp sản phẩm, dịch vụ; ủng hộ, phối hợp với Việt Nam tiếp cận, triển khai các dự án trong khuôn khổ Quỹ trợ cấp cho các hoạt động sản xuất và phát triển chất bán dẫn của chính phủ Mỹ.

Nhấn mạnh đến Đề án Phát triển nguồn nhân lực ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề nghị NVIDIA hợp tác, hỗ trợ NIC và các cơ sở đào tạo lớn của Việt Nam thực hiện các chương trình đào tạo nguồn nhân lực ngành bán dẫn. Bộ trưởng cũng cho biết Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp để tạo điều kiện thuận lợi nhất về thủ tục đầu tư kinh doanh cho các nhà đầu tư.

Vừa qua, tại Tuyên bố chung Việt Nam – Mỹ trong chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Joe Biden, hai bên nhấn mạnh hợp tác đột phá của hai nước là đổi mới sáng tạo và công nghệ cao, trong đó có chip bán dẫn và AI. Việt Nam đã được chính phủ Mỹ mời tham gia các sáng kiến về bán dẫn trong khuôn khổ Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).

Tại tọa đàm “Sự sẵn sàng cơ sở hạ tầng cho ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp Hiệp hội Công nghiệp bán dẫn Mỹ (SIA) tổ chức ngày 7-12, ông John Neuffer – Chủ tịch SIA – cho biết nhiều nhà đầu tư nhận thấy “cơ hội lớn” để Việt Nam phát triển dấu ấn của mình trong chuỗi cung ứng chất bán dẫn toàn cầu.

NVIDIA có vốn hóa hơn 1.200 tỉ USD

NVIDIA là tập đoàn công nghệ đa quốc gia, chuyên thiết kế các bộ xử lý đồ họa (GPU), giao diện lập trình ứng dụng (API) cho khoa học dữ liệu và điện toán hiệu năng cao cũng như hệ thống trên các đơn vị chip (SoC) cho thị trường điện toán di động và ô tô. Hiện NVIDIA có hơn 27.000 nhân viên trên toàn cầu, có vốn hóa hơn 1.200 tỉ USD. Với cơn sốt AI toàn cầu, NVIDIA đang tăng kế hoạch sản xuất chip AI cho năm 2024 lên hơn 3 lần và doanh thu của tập đoàn dự kiến còn tăng rất nhiều trong thời gian tới.

Nguồn: Người Lao Động | Link

Tham khảo thêm các dịch vụ của SIA tại đây

Ngành công nghiệp bán dẫn: Ngách hẹp của doanh nghiệp Việt

Ngành công nghiệp bán dẫn hiện đại không chỉ là sân chơi cho các tập đoàn tư nhân lớn nước ngoài mà còn mở ra cơ hội cho một số doanh nghiệp Việt Nam.

Chip “Made in Vietnam” chiếm hơn 10% sản lượng nhập khẩu vào Mỹ trong 12 tháng, tính đến tháng 2/2023. Doanh thu tháng này tăng 75% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 562 triệu USD, theo báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông. Ở châu Á, Việt Nam chỉ đứng sau Malaysia và Đài Loan về thị phần xuất khẩu chip vào Mỹ.

Nhưng kết quả xuất khẩu này đa phần đến từ đầu tư của doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là Tập đoàn Intel với dự án 1 tỷ USD ở Khu công nghệ cao TP.HCM từ năm 2006. Tính riêng năm 2021, nhà máy của Intel đã sản xuất và phân phối 3 tỷ sản phẩm bán dẫn ra toàn thế giới, đóng góp đáng kể vào doanh thu xuất khẩu của TP.HCM.

Tiếp nối Intel, các tập đoàn đa quốc gia khác từ Mỹ, Hàn Quốc và các nước đồng minh trong chuỗi công nghiệp bán dẫn của Mỹ lần lượt đổ vốn vào ngành này, trong đó có Samsung, Qualcomm, Texas Instruments, SK Hynix, Hayward Quartz Technology, Synopsys và NXP Semiconductors. Tất cả dần tạo nên một chuỗi công ty bán dẫn tương đối sôi động tại Việt Nam.

Tháng 10 vừa qua, Amkor Technology, một trong những nhà cung cấp dịch vụ đóng gói, thiết kế và thử nghiệm chất bán dẫn thuê ngoài lớn nhất thế giới, đã khánh thành nhà máy bán dẫn của họ tại Bắc Ninh. Nhà máy trị giá 1,6 tỷ USD này áp dụng công nghệ đóng gói tiên tiến SiP (System-in Package), cho phép tích hợp không đồng nhất các kiến trúc chip mới, đáp ứng nhu cầu chuyên biệt hóa chức năng của nhiều công nghệ mới hiện nay như trí tuệ nhân tạo, 5G, 6G, xe tự hành, trung tâm dữ liệu, IoT. Trong khi đó, gã khổng lồ công nghệ Samsung, có mặt gần hai thập kỷ ở Việt Nam, cũng bắt đầu đưa các công nghệ đóng gói chip vào danh mục hoạt động của mình ở đây.

Một số doanh nghiệp FDI khác tuy mang đến vốn đầu tư ít hơn nhưng lại tập trung vào phân khúc “trí tuệ” là thiết kế vi mạch. Có khoảng 40 doanh nghiệp đã hoạt động trong lĩnh vực này từ nhiều năm, thuần túy là các công ty kinh doanh và thuê kỹ sư thiết kế người Việt. Tuy nhiên, các khoản đầu tư mới đây đã đẩy sang một hình thức lan tỏa hơn là kết hợp với khối học thuật và các trung tâm nghiên cứu của chính quyền, thông qua các Trung tâm R&D của Samsung, LG hoặc các ký kết hợp tác phát triển Trung tâm thiết kế vi mạch của Synopsys, Cadence tại TPHCM, Hà Nội, Đà Nẵng.

Những tín hiệu trên phát ra một thông điệp rõ ràng: Việt Nam đang dần được đánh giá tích cực hơn dưới tư cách là một trong những lựa chọn cho việc phát triển chuỗi giá trị của các ngành công nghệ cao như bán dẫn. Theo báo cáo của Technavio, ngành bán dẫn Việt Nam ước tính sẽ đạt 6,16 tỷ USD vào năm tới.

Không thể quá mong chờ vào FDI

Tuy nhiên, nói đến cùng, các doanh nghiệp FDI nhắm đến Việt Nam vì lợi ích của họ. Để phát triển một ngành công nghiệp bán dẫn bền vững và lâu dài, Việt Nam phải tìm cách phát triển cả những công ty nội địa.

Nhìn sâu vào bức tranh hiện nay của các doanh nghiệp FDI, họ đang triển khai hai khâu “nhẹ nhàng” hơn trong chuỗi giá trị bán dẫn là đóng gói và thiết kế, không phải sản xuất chip. Phần thiết kế gần như có thể thực hiện được hoàn toàn bằng kỹ thuật số, miễn là có một đội ngũ có nhân sự tốt. Các hãng fabless (chuyên thiết kế và thuê ngoài sản xuất) danh tiếng nước ngoài có thể vào rất nhanh nhưng cũng có thể rút đi rất nhanh vì không phải đầu tư quá nhiều ngoài máy tính và phần mềm.

“Chúng ta không nên quá mong chờ vào FDI. Tất nhiên, họ vào sẽ nâng cao năng lực của con người mình, đầu tư của họ cũng tiêu tốn tiền, nhưng để chuyển giao công nghệ thì còn lâu mới có được. Các doanh nghiệp nội vẫn phải cố gắng tự đi trên đôi chân của mình”, PGS.TS Nguyễn Đức Minh, Trưởng khoa Điện tử (Đại học Bách khoa Hà Nội), nhận xét.

Các công ty trong ngành bán dẫn và tỷ lệ phân bổ nguồn nhân lực theo khu vực tại Việt Nam. Nguồn: Cộng đồng vi mạch Việt Nam

Kinh nghiệm quá khứ chỉ ra rằng, các công ty Việt Nam rất khó chen chân vào trở thành nhà cung ứng cho các nhà máy sản xuất, đóng gói của doanh nghiệp FDI. Những doanh nghiệp quốc tế này có nhiều đòi hỏi và gần như sẽ đưa các đối tác cung ứng sẵn có của họ từ bên kia sang. Samsung là một ví dụ cho thấy vị trí thấp của doanh nghiệp Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu. Sau 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài, Samsung gần như là doanh nghiệp FDI duy nhất thiết lập được một mạng lưới các nhà cung ứng hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong 26 nhà cung ứng của Samsung, 85% đến từ Hàn Quốc, 7,5% đến từ Nhật Bản, 7,5% đến từ Trung Quốc, và hoàn toàn không có doanh nghiệp thuần Việt nào.

Tương tự, Intel dù đã có mặt tại Việt Nam gần hai thập kỷ cũng tiết lộ rằng chưa có doanh nghiệp nội nào cung cấp được nguyên vật liệu trực tiếp cho công đoạn lắp ráp, đóng gói chip. Tháng tám vừa rồi, Intel đã quyết định xây nhà máy đóng gói chip dùng công nghệ tiên tiến nhất hiện nay là 3D packaging tại Malaysia. Khác với Việt Nam, Malaysia có một hệ sinh thái sản xuất bán dẫn hoàn chỉnh với các doanh nghiệp nội địa đảm nhận được tất cả các khâu từ thiết kế, chế tạo đến lắp ráp, kiểm định chip.

Rõ ràng, nếu muốn tạo được mối liên hệ cộng sinh với các công ty bán dẫn hàng đầu, các doanh nghiệp Việt Nam nên quên những công việc năng suất thấp như cung cấp nguyên vật liệu và tập trung vào những công việc chất xám có trình độ công nghệ cao. GS. Trần Xuân Hoài (Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam), nhận xét: “Nó có thể rơi vào những phân khúc rất hẹp”.

Chẳng hạn như công đoạn kiểm tra thiết kế chip cho doanh nghiệp khác. Không giống như phần mềm, người ta không thể sửa lỗi chip thông qua bản vá, mà cần phải thiết kế và sản xuất lại toàn bộ chip nếu có lỗi. Quá trình này vừa tốn thời gian vừa tốn tiền bạc. Những bên thiết kế chip thường thuê ngoài các công ty làm simulation (mô phỏng) và emulation (giả lập) để kiểm tra tính năng của con chip được thiết kế. Trong khi mô phỏng thường dựa trên các mô hình đơn giản hóa về hành vi của chip để chạy thử trên máy tính thì giả lập sẽ biểu diễn chính xác hành vi của chip trên môi trường thiết bị thật.

Cả hai khâu này đều không dễ và đòi hỏi nhân lực trình độ xuất sắc. “Ở bên Mỹ, những công ty phụ trợ như thế rất phổ biến trong ngành mặc dù các công ty này chỉ cần từ 10-15 người. Nó tạo sự thuận lợi cho các doanh nghiệp lớn. Tôi nghĩ rất có khả năng một vài nhóm Việt Nam sẽ làm được. Và nếu làm tốt, họ có thể khai thác vô số đơn hàng từ những doanh nghiệp FDI hoặc được mua lại”, GS. Hoài nhận xét.

Giới thiệu về các sản phẩm chip tại Phòng thiết kế vi mạch (Chip Design Lab) của Trung tâm Thiết kế vi mạch Khu Công nghệ cao TPHCM. Ảnh: SHTP

Một phân khúc rộng rãi hơn mà các công ty nội có thể tham gia là thiết kế chip. Ở đây, Việt Nam có cơ hội tạo ra các sản phẩm cho riêng mình hoặc kết hợp với các công ty nước ngoài để cùng phát triển. Trên thực tế, Viettel, FPT và một vài công ty công nghệ Việt Nam khác đã cắm chip vi mạch tự thiết kế của họ vào một số thiết bị, mặc dù việc sản xuất chip vẫn được gia công cho các đối tác ở Hàn Quốc và Đài Loan.

Điều này dường như phù hợp với định hướng của đất nước. Trong một tọa đàm cấp cao của NIC về phát triển công nghiệp bán dẫn ở Việt Nam, ông Nguyễn Thiện Nghĩa, Phó Cục trưởng Cục Công nghiệp ICT, Bộ Thông tin và Truyền thông, người đang tham gia xây dựng dự thảo Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn (dự kiến xuất hiện vào năm sau), tiết lộ Việt Nam sẽ tiếp cận theo hướng phát triển các chip chuyên biệt cho từng ứng dụng.

“Tất nhiên là các chip cao cấp thì vẫn sẽ được tiếp tục phát triển nhưng trong bối cảnh bùng nổ về IoT thì nhu cầu những chip chuyên biệt sẽ ngày càng lớn hơn”, ông Nghĩa nói. “Chúng ta chưa nhất thiết phải có sản phẩm ngay nhưng có thể đồng hành, tham gia vào hệ sinh thái của các công ty lớn, đồng thời tập trung vào phân khúc tầm thấp và tầm trung, nơi chúng ta có lợi thế cạnh tranh tốt nhất về giá”.

Doanh nghiệp Việt có thể bắt tay vào thiết kế những con chip khổ lớn (28-100 nm), bao gồm các loại chip nhớ, chip điều khiển ô tô, thậm chí là chip cho các cơ sở hạ tầng căn bản như năng lượng, quốc phòng, di động, dữ liệu và truyền thông. “Vì Việt Nam nổi tiếng với xuất khẩu phần mềm hàng đầu thế giới nên một khi đã cung cấp tốt dịch vụ phần mềm, các doanh nghiệp Việt cũng có một sự thấu hiểu nhất định về khách hàng và nhu cầu của họ, từ đó có thể đẩy lên cung cấp các sản phẩm vi mạch thiết kế riêng, tối ưu hóa theo yêu cầu cụ thể của khách hàng”, ông Nghĩa kỳ vọng.

Tuy nhiên trên thực tế, thị trường của phân khúc thiết kế này không dễ thâm nhập, bởi có rất ít doanh nghiệp thiết kế chip nội địa thực sự nhận được “đầu bài” của khách hàng.

Cần một chương trình hỗ trợ chi phí cho các startup 

Di chuyển trong không gian bán dẫn không phải là điều dễ dàng với các doanh nghiệp nội. So với các doanh nghiệp FDI được rộng cửa chào đón, các doanh nghiệp Việt Nam – đặc biệt là các startup – phải đối mặt với rủi ro cao hơn. Điều này đến từ sự thiếu vắng các chương trình hỗ trợ hiệu quả của nhà nước nhắm đến đổi mới sáng tạo. “Các chính sách của Việt Nam gần như không favor cho đổi mới sáng tạo”, một nhà nghiên cứu vi mạch làm việc tại một trong những cơ sở đào tạo lớn nhất Việt Nam chia sẻ với Khoa học & Phát triển hồi tháng 11.

Bản thân anh đang chăm chút cho một công ty startup của riêng mình, đồng thời cố vấn cho hai công ty khởi nghiệp Việt khác, một về chế tạo chip nano dành cho các ứng dụng y sinh và một về chuẩn vi xử lý nguồn mở mới thay thế cho kiến trúc ARM được dùng khá phổ biến trong điện thoại di động. Cũng như nhiều nhà sáng lập, anh tiết lộ rằng các doanh nghiệp startup công nghệ cao nói chung thực sự không thể vượt qua được các rào cản hành chính để tiếp cận những ưu đãi về thuế, không gian và nhân lực mà các văn bản luật hứa hẹn.

Họ cũng không tìm thấy bất kỳ nguồn vốn mạo hiểm nào từ khu vực công để làm bước đệm cho chặng đường khó khăn. Việt Nam chưa có một chương trình hỗ trợ mạnh mẽ từ chính quyền để trang trải các chi phí cho phát triển sản phẩm bán dẫn – ví dụ dưới hình thức ươm tạo, trợ cấp, lấy cổ phần, hoàn trả chi phí R&D hoặc hưởng ưu đãi phần trăm doanh thu khi thương mại hóa. Trên thực tế, các khoản đầu tư từ nhà nước có thể không nhiều nhưng sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc kích hoạt các doanh nghiệp nhỏ vượt qua “thung lũng chết” của khởi nghiệp. Nó cũng tạo sức hút cho các nhà đầu tư khác tham gia vào trong những giai đoạn phát triển tiếp theo của các công ty khởi nghiệp.

Nguồn: Tia Sang | Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA | Liên kết

Kinh tế Việt Nam 2023: Nhiều điểm sáng nổi bật

Thể chế tiếp tục được hoàn thiện, kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, giải ngân vốn đầu tư công tăng cao so với năm 2022, xuất khẩu phục hồi trở lại… là những điểm sáng của kinh tế Việt Nam trong năm 2023.

Kinh tế Việt Nam 2023: Nhiều điểm sáng nổi bật - Ảnh 1.

TS. Cấn Văn Lực đánh giá đầu tư công đang triển khai rất tốt

Đó là đánh giá của các chuyên gia tại hội thảo “Nền kinh tế Việt Nam năm 2023: Có bao nhiêu điểm sáng” do Câu lạc bộ Các nhà kinh tế phối hợp với Tạp chí Doanh nhân Sài Gòn tổ chức ngày 1/12.

Chính sách hỗ trợ thị trường chưa từng có

Nhận định về nền kinh tế Việt Nam năm 2023, TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng BIDV, Thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia cho rằng có nhiều điểm sáng nổi bật.

Theo TS. Cấn Văn Lực, Việt Nam không thể tránh được những tác động từ tình hình khó khăn của kinh tế thế giới, nhưng những tín hiệu phục hồi của nền kinh tế hiện khá rõ nét. Nền kinh tế có nhiều động lực cho tăng trưởng cả năm 2023 và 2024, như: Sự dịch chuyển chuỗi cung ứng và dòng vốn đầu tư toàn cầu; thị trường Trung Quốc mở cửa trở lại; dịch vụ, tiêu dùng tăng khá; đầu tư công được đẩy mạnh, rủi ro tài khóa ở mức trung bình, dư địa chính sách vẫn còn; lạm phát và lãi suất đang giảm, tỉ giá cơ bản ổn định, rủi ro nợ xấu trong tầm kiểm soát…

Dự báo năm 2023, tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt trên 5-5,2%, dù thấp hơn so với chỉ tiêu 6-6,5% nhưng vẫn ở mức tăng trưởng gần như cao nhất trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Củng cố cho những nhận định trên, TS. Cấn Văn Lực chỉ ra những điểm sáng cụ thể như xuất khẩu tháng đầu năm giảm tới 26% nhưng đến thời điểm này, mức giảm chỉ còn dưới 6%. Tương tự, chỉ số sản xuất công nghiệp, thời điểm đầu năm có lúc tăng trưởng âm đến 15% nhưng hiện đã đạt mức tăng dương 1%. “Mức độ giảm đang ít đi có nghĩa là kinh tế đang tốt lên. Rõ ràng chúng ta đã phục hồi và đang lấy lại đà tăng trưởng tích cực”, TS. Cấn Văn Lực khẳng định.

Về đầu tư, với ba dòng vốn đầu tư chính của nền kinh tế, TS. Cấn Văn Lực đánh giá đầu tư công đang triển khai rất tốt, đến thời điểm hiện nay đã tăng khoảng 20% so với cùng kỳ. Giải ngân vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng trưởng khoảng 4%. Tuy nhiên, đầu tư tư nhân chưa như kỳ vọng, chỉ đạt khoảng trên 3%, trong khi thông thường mức tăng vào khoảng 6-7%. Do đó, ông khuyến nghị, thời điểm này cần có các biện pháp để phục hồi đầu tư của khối tư nhân.

Trái phiếu doanh nghiệp, giá trị phát hành cũng đang chuyển biến tích cực. Đến cuối tháng 11, phát hành trái phiếu đạt 240.000 tỷ đồng. Quan sát số liệu từng tháng cho thấy, giá trị phát hành tháng sau cao hơn tháng trước, riêng tháng 10 giá trị trái phiếu phát hành thành công khoảng 41.000 tỷ đồng, tăng 194% so với tháng 10 năm 2022.

Với thị trường bất động sản, lượng cung nhà ở bắt đầu tăng trở lại và số lượng giao dịch trong quý III đã tăng 1,5 lần so với quý II, vào khoảng 6.000 giao dịch thành công. Tuy chưa được như mong muốn nhưng thị trường quan trọng này đang chuyển biến tích cực.

Đặc biệt, một điểm sáng quan trọng theo TS. Cấn Văn Lực đó là việc thúc đẩy hoàn thiện thể chế. Nhiều quy định, luật quan trọng, như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Các tổ chức tín dụng… được sửa đổi, dù không thông qua cùng thời điểm.

Bên cạnh đó, toàn bộ các chính sách (bao gồm giãn, hoãn, giảm thuế, phí…) mà Chính phủ ban hành trong thời gian vừa qua nhằm hỗ trợ cho các thị trường, như thị trường vốn, đất đai, bất động sản, du lịch…, có thể nói là chưa từng có. Đáng chú ý, hầu hết các chính sách áp dụng từ thời kỳ dịch bệnh COVID-19 đến nay được giữ nguyên.

Kinh tế Việt Nam 2023: Nhiều điểm sáng nổi bật - Ảnh 2.

Chuyên gia cho rằng Việt Nam hoàn toàn có hy vọng phát triển ngành công nghệ bán dẫn

Cơ hội trở thành trung tâm sản xuất công nghệ cao

Cùng quan điểm với TS. Cấn Văn Lực, chuyên gia tài chính, từng có nhiều năm làm việc tại Quỹ Tiền tệ Quốc tế, TS. Phạm Đỗ Chí, cho rằng trong bối cảnh kinh tế toàn cầu khó khăn hiện nay, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam 11 tháng đầu năm vẫn đạt hơn 322 tỷ USD (chỉ giảm 5,9% so với cùng kỳ năm 2022) là một trong những điểm sáng quan trọng của kinh tế Việt Nam trong năm 2023.

Cùng với đó, con số kiều hối chuyển về nước năm 2023 ước đạt 14 tỷ USD và số vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam 11 tháng đạt gần 29 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước cũng là những điểm sáng ấn tượng.

Vị chuyên gia này cho biết rất kỳ vọng vào việc Việt Nam nâng cấp quan hệ đối tác lên mức chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ và Nhật Bản. Theo ông, việc nâng cấp này sẽ tác động rất lớn đến nền kinh tế Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành trung tâm sản xuất công nghệ cao của thế giới trong tương lai.

Theo TS. Phạm Đỗ Chí, trong bối cảnh địa chính trị trên thế giới phức tạp, Việt Nam vẫn tiếp tục thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài lớn trong lĩnh vực công nghệ. Tiêu biểu như Tập đoàn Samsung đầu tư 19 tỷ USD, gồm 6 nhà máy và 1 trung tâm nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam; hay Apple và nhiều nhà sản xuất hàng đầu thế giới khác như Google, Dell, Amazon cũng đang thiết lập cơ sở sản xuất tại Việt Nam. Đây sẽ là những cơ sở để Việt Nam phát triển ngành công nghệ bán dẫn trong nước. Tuy nhiên, đó là kế hoạch dài hạn, cần có sự chuẩn bị về chính sách, đào tạo nguồn nhân lực….

Nông nghiệp tiếp tục là “trụ chính” của nền kinh tế

Theo PGS.TS. Nguyễn Chí Hải, nguyên Trưởng khoa Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế – Luật (ĐHQG TPHCM) tăng trưởng của ngành nông nghiệp trong 9 tháng đầu năm đạt 3,43%, vượt mức cùng kỳ năm 2022, đóng góp 9,16% vào mức tăng trưởng GDP của nền kinh tế. Dự báo đến hết năm 2023 sẽ đạt mức tăng trưởng khoảng 3,5%, như kế hoạch đặt ra.

Về giá trị, kết quả xuất khẩu nông nghiệp 9 tháng đầu năm đạt hơn 38 tỷ USD, nhập khẩu hơn 30 tỷ USD, xuất siêu hơn 9 tỷ USD, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm 2022. Dự kiến cả năm xuất khẩu toàn ngành nông nghiệp đạt mục tiêu 54 tỷ USD.

Đánh giá cao vai trò của ngành nông nghiệp đối với nền kinh tế, nhất là trong một năm nhiều khó khăn, PGS.TS. Nguyễn Chí Hải nhìn nhận việc giữ được tăng trưởng ổn định cho thấy nông nghiệp tiếp tục là “điểm sáng” nổi bật của nền kinh tế, tiếp tục giữ vai trò “bệ đỡ” và là “trụ chính” của nền kinh tế.

Triển vọng năm 2024

Theo các chuyên gia, với những thách thức do xung đột địa chính trị và sự gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, nguy cơ lạm phát tại các thị trường chủ chốt của Việt Nam vẫn tiềm ẩn, thị trường trong nước còn yếu, đầu tư khu vực tư nhân chưa phục hồi…, tuy nhiên, những điểm sáng của nền kinh tế trong năm 2023, những động lực cho tăng trưởng hiện nay sẽ tạo đà tăng trưởng cho năm 2024 và các năm tiếp theo.

Ở góc độ doanh nghiệp, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Green+, ông Đặng Đức Thành cho biết, 11 tháng đầu năm, xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ước đạt 322,5 tỷ USD, mức giảm chỉ còn 5,9% so với cùng kỳ năm trước, xuất siêu gần 26 tỷ USD. Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch 11 tháng ước đạt 88 tỷ USD. Do đó, ưu tiên sản xuất những mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu cho thị trường này nên là hướng đi mà các doanh nghiệp, trong đó có Green+ cần quan tâm trong thời gian tới.

TS. Phạm Đỗ Chí nhận định, việc Fed tạm ngừng tăng lãi suất, chính sách của Fed ổn định sẽ giúp cho nền kinh tế Hoa Kỳ phục hồi, đồng thời cũng sẽ tác động tích cực đến các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Thêm vào đó, năm 2024 cũng là năm bầu cử, Chính phủ Hoa Kỳ sẽ chi tiêu mạnh hơn, do đó, triển vọng xuất khẩu vào thị trường này của Việt Nam sẽ rất tích cực. Và các doanh nghiệp nên có kế hoạch tăng cường sản xuất, đáp ứng nhu cầu xuất khẩu khi kinh tế Hoa Kỳ và các thị trường khác phục hồi.

Với thị trường trong nước, bên cạnh việc ổn định kinh tế vĩ mô, cần quan tâm chính sách kích cầu và chính sách tiền tệ trong năm 2024. Giảm VAT nên áp dụng đến cuối năm 2024.

Còn theo TS. Cấn Văn Lực, tăng trưởng kinh tế năm 2024, thế giới có thể đi ngang hoặc giảm nhẹ nhưng Việt Nam dự kiến phục hồi ở mức 6 – 6,5%. Để đảm bảo mức tăng trưởng này, những cơ chế, chính sách về tài khóa từ năm 2023 nên tiếp tục áp dụng. Các chính sách tiền tệ, như giảm lãi suất, cơ cấu lại nợ cũng cần kéo dài thực hiện đến hết năm.

Với các doanh nghiệp, phải đẩy mạnh cơ cấu lại, đa dạng hóa nguồn vốn, nâng cao tính thích ứng, và nhất là nhanh chóng chuyển đổi theo hướng xanh hóa và số hóa. Với các doanh nghiệp bất động sản, phải chấp nhận bán tài sản để cơ cấu lại nợ. Hiện giá bất động sản tại Việt Nam vẫn tương đối cao so với mặt bằng thu nhập, giá bất động sản nên giảm xuống cho phù hợp với khả năng chi trả của người dân, chỉ như thế mới phát triển bền vững.

Nguồn: CafeF | Link

Tham khảo thêm dịch vụ của SIA | Link