Góc nhìn chuyên gia: Vietnam 2.0 là cơ hội cho các doanh nghiệp quốc tế
Trước chuyến công du châu Á của Tổng thống Mỹ Joe Biden gần đây, ông đã tổ chức “Hội nghị Cấp cao Đặc biệt ASEAN-Hoa Kỳ năm 2022” tại Washington, D.C., với sự tham dự của nhiều nguyên thủ quốc gia châu Á, trong đó có Thủ tướng Việt Nam Phạm Minh Chính. Trong chuyến thăm Hoa Kỳ lần này, Thủ tướng Việt Nam đã gặp gỡ nhiều quan chức thuộc chính quyền tổng thống Biden, đồng thời trao đổi với lãnh đạo các tập đoàn công nghệ hàng đầu như Google, Intel và Microsoft. Trong cuộc gặp với Tổng thống Biden, Thủ tướng đã chuyển lời mời của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước mời Tổng thống Biden sang thăm Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời bày tỏ hy vọng sẽ tăng cường hợp tác với Hoa Kỳ để hỗ trợ Việt Nam phát triển một nền nền kinh tế xanh, đa dạng hoá chuỗi cung ứng và thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng.
Ngoài ra, điều đáng chú ý là việc thúc đẩy hợp tác giữa các cơ sở đào tạo đại học của Việt Nam và Hoa Kỳ. Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có bài phát biểu tại Trường Harvard Kennedy, phân tích về “cách thức xây dựng một nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ và quốc tế hoá”. Mục tiêu chiến lược quốc gia của Việt Nam là trở thành một nước đang phát triển với các ngành công nghiệp tiên tiến và thu nhập từ trung bình đến cao đến năm 2030. Thủ tướng cũng đã đến thăm Đại học Stanford để trao đổi khoa học và công nghệ, đồng thời mong rằng Stanford sẽ hỗ trợ Việt Nam thiết lập chương trình đào tạo nhân tài về Big Data và AI. Tất cả những điều này cho thấy Việt Nam từ lâu đã khác với các nước dựa vào nguồn lao động giá rẻ làm yếu tố phát triển kinh tế chính, và đang nhanh chóng tiến tới trình độ của các nước tiên tiến.
Sau Hội nghị thượng đỉnh bất thường ASEAN-Hoa Kỳ, Tổng thống Mỹ Joe Biden đến châu Á để trao đổi về “Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” (IPEF). Hoa Kỳ đã từ chối tham gia TPP và thành lập IPEF. Nếu tổ chức này không có sự ủng hộ của các nước Đông Nam Á, IPEF sẽ không thể trở thành một liên minh kinh tế và thương mại có ảnh hưởng. Hầu hết các nước ASEAN đều không muốn làm mất lòng Trung Quốc, đây cũng là mấu chốt khiến Đài Loan không được mời tham gia trong giai đoạn đầu của IPEF. Nếu không, “Khuôn khổ kinh tế Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương” sẽ được coi là “Liên minh chống Trung Quốc”.
Điều đáng khâm phục là tham vọng của Việt Nam với tư cách là một quốc gia đang phát triển mới nổi, tập trung vào nền kinh tế xanh, chuỗi cung ứng và chuyển đổi năng lượng, đã vượt quá kỳ vọng thu hút đầu tư nước ngoài của các nước thông thường, và tầm nhìn cũng như khuôn mẫu của Việt Nam có thể so sánh với các nước lớn. Chính vì lẽ đó, mới đây, ông trùm bất động sản Hong Kong Lý Gia Thành đã bắt tay với một liên danh của Việt Nam đầu tư 80 tỷ đô la Mỹ vào TP.HCM để phát triển bất động sản và hạ tầng, khiến cả thế giới chấn động.
Gần đây, Tập đoàn Vingroup của Việt Nam đã tích cực lấn sân sang thị trường xe điện, thậm chí còn đặt nhà máy sản xuất tại Hoa Kỳ. Nhà máy của Vingroup tại Mỹ được thiết kế để có công suất sản xuất hàng năm là 150.000 xe, đây là điều rất tham vọng đối với một công ty hàng đầu tại một quốc gia thiếu cơ sở sản xuất công nghiệp. Do thiếu nhiều linh kiện nên Vingroup đang đẩy mạnh chiến lược nội địa hóa linh kiện, thậm chí mời các nhà sản xuất chip đặt nhà máy tại Việt Nam với nhiều điều khoản hấp dẫn. Foxconn đã công bố việc xây dựng một fab 12 inch ở Malaysia, minh chứng cho tiềm năng đầu tư của công nghệ ở Đông Nam Á.
Đầu tư trực tiếp của Đài Loan vào Việt Nam đứng sau các nước châu Á khác. Theo số liệu năm 2021, quốc gia đầu tiên là Singapore (10,7 tỷ đô la), tiếp theo là Hàn Quốc (5 tỷ đô la), Nhật Bản (3,9 tỷ đô la), Trung Quốc (2,9 tỷ đô la Mỹ) , Hong Kong (2,3 tỷ USD), Đài Loan chỉ 1,3 tỷ USD, đứng thứ sáu, giảm 39% so với năm 2020.
Nhóm doanh nghiệp Đài Loan đầu tiên vào thị trường Trung Quốc đại lục sau Sự kiện Thiên An Môn năm 1989, bao gồm các công ty như Master Kong, Wang Wang và Foxconn, giờ đã phát triển vượt trội. Đầu tư của các doanh nhân Đài Loan vào Việt Nam trước đây chủ yếu là lĩnh vực sản xuất, tập trung ở phía Nam, phần lớn là các ngành truyền thống như giày dép, dệt may thì nay đã chuyển dần sang đầu tư vào lĩnh vực công nghệ và chuyển đến các thành phố như Hải Phòng ở phía Bắc.
Nhưng cơ hội kinh doanh thực sự ở Việt Nam nằm ở việc kinh doanh, đáp ứng nhu cầu của tầng lớp tiêu dùng trung lưu, bao gồm thực phẩm, quần áo, nhà ở, giao thông, giáo dục và giải trí. Các doanh nhân Đài Loan trước nay ít tham gia khai thác thị trường này. Từ góc độ này, vật liệu y tế và chăm sóc y tế có cơ hội kinh doanh lớn, đặc biệt trong lĩnh vực phụ nữ và trẻ em; ngành công nghiệp ô tô có tương lai tươi sáng với VinFast của Việt Nam đã tham gia vào thị trường xe điện, các ngành công nghiệp này đang phát triển nhanh chóng. Với bất động sản, đây là thị trường mà Lý Gia Thành đang hướng tới. Với ngành dịch vụ tài chính, FinTech của Việt Nam đang phát triển nhanh chóng, dẫn đầu các nước Đông Nam Á.
Hiện tại là thời điểm thuận lợi để đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, cũng giống như Trung Quốc đại lục cách đây 30 năm. Với điều kiện và tham vọng của mình, Việt Nam có thể phát triển thành Đài Loan ngày nay trong vòng mười năm. Nếu các doanh nhân Đài Loan muốn mở cánh cửa ra thế giới thành công, Việt Nam là sự lựa chọn tốt nhất, nhưng họ không thể sử dụng các phương pháp trước đây nữa, họ phải sử dụng tư duy đổi mới và tích hợp nguồn lực để phát triển bản thân!
Tác giả: Ông Huang Chi-Yuan, Chủ tịch FCC Parners
ham khảo hoạt động mới nhất của SIA | Liên kết
Trang FB của Liên minh Ảnh hưởng Đông Nam Á| Liên kết