Việt Nam sẵn sàng trước làn sóng chất bán dẫn sau chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden

Từ thủ đô Hà Nội, hướng về phía nam, cách chưa đầy một giờ đi xe, các tòa nhà cao tầng ngoài cửa sổ xe nhanh chóng biến thành các nhà máy công nghiệp.

Đây là tỉnh Hà Nam, một tỉnh trọng điểm sản xuất điện tử của miền bắc Việt Nam. Trong khu công nghiệp có sự hiện diện của vốn đầu tư nước ngoài, con đường thẳng và rộng rãi. Ở đầu này là nhà máy thiết bị mạng Wistron NeWEB, ở đầu kia là Wistron, một công ty đang lên kế hoạch mở rộng nhà máy của họ. Khá xa nơi đó là một nhà máy điện tử của Nhật Bản vừa mới bắt đầu xây dựng. Và trên mảnh đất xây dựng bao la, những con bò đang ăn cỏ dạo chơi dưới ánh nắng mặt trời chói chang.

Tại Khu công nghiệp Đồng Văn, tỉnh Hà Nam, Việt Nam, các nhà máy lớn đang mở rộng sản xuất trước tình hình tăng trưởng nhanh chóng.

「Đam mê、sức khoẻ và làm thêm giờ là điều có thể !」Chủ tịch Tập đoàn Great Resources, Chủ tịch Chi nhánh Bắc Ninh của Hội Doanh nhân Việt Nam Đài Loan, ông Lâm Hiên Tiết dừng xe lại, lật qua biển quảng cáo tuyển dụng bên cạnh. Các nhà máy đã từng vào, và ở các góc đường cũng đầy quảng cáo tuyển dụng nhân sự.。

Ông Lâm Hiên Tiết, chuyên về xây dựng nhà máy, đã 17 năm ở Việt Nam, không bao giờ nghĩ rằng các khu công nghiệp ở Bắc Bộ sẽ đông đúc như hiện tại, giá đất cũng tăng gấp đôi.

“Vì các nhà máy bị ảnh hưởng bởi đại dịch, năm nay tất cả đã hoạt động,” chủ tịch Liên hiệp doanh nhân Việt Nam Đài Loan, ông Giản Trí Minh quan sát. Số lượng thành viên doanh nghiệp Đài Loan tại Bắc Bộ đã tăng thêm 150 doanh nghiệp trong hơn hai năm.

Tỉnh Hà Nam chỉ là một ví dụ nhỏ trong làn sóng đầu tư của các công ty nước ngoài. Nếu nhìn vào bản đồ các nhà máy lớn, có thể thấy rõ rằng làn sóng này khác biệt hoàn toàn so với trước đây 4 năm.

Ban đầu, các nhà máy điện tử lớn đặt ở Trung Quốc thường theo lộ trình mà người sáng lập Foxconn, ông Quách Đài Minh, đã chọn cách đây 20 năm: chia sức sản xuất từ Trung Quốc ra theo đường bộ qua đất liền ở Quảng Tây và rải rác ở sân bay Hà Nội và cảng biển Hải Phòng ở Bắc Bộ.

Nhưng hiện nay, khu vực Hà Nội và biển Hải Phòng đã không đủ, các nhà máy sản xuất điện tử lớn đã nở rộ trên khắp Bắc Bộ. Thậm chí tỉnh nông nghiệp lớn như Nghệ An cũng đã tuyên bố mở cửa đất đai và nâng tay chào đón Foxconn với tổng số vốn đầu tư lên đến 1,2 tỷ USD.

Dấu hiệu đầu tư này hầu như ngược lại với tình hình kinh tế tổng quan.”

Nhìn vào TP.HCM, những tòa nhà cao tầng đang mọc lên. (Ảnh của Xie Peiying)

Dải 1+ của Trung Quốc, khách hàng yêu cầu thiết lập nhà máy

Hiện tại, nhu cầu tiêu dùng tại châu Âu và Mỹ giảm sút, ngành sản xuất vẫn đang xử lý việc giảm tồn kho và chưa hoàn thành. Chính quyền Việt Nam đã thừa nhận khả năng không thể đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP 6.5% trong năm nay. Lạ thay, dòng vốn đầu tư vẫn đổ dồn mạnh.

“Khách hàng nói thẳng là muốn chúng tôi chuẩn bị nhà máy ở Việt Nam. Chúng tôi không đến được à?” Một người Việt Nam phụ trách một nhà máy OEM điện tử lớn nói một cách bất lực.

Miền Bắc Việt Nam trở thành khu vực mới nổi ‘Trung Quốc +1,’ bởi vì nó nằm gần Trung Quốc và có thể tích hợp với các khu công nghiệp của Trung Quốc, từ đó tạo ra một sự phân chia công việc trong ngành sản xuất.

“Trừ Trung Quốc, nơi nào trên thế giới còn có một tụ điểm điện tử như ngũ ca ở Đài Loan?” Phó Tổng Giám đốc Công ty Chilisin Vietnam, một công ty sản xuất thành phần điện tử lớn, ông Yun-Huan Liao mô tả một cách chính xác.

Tại miền Bắc, không chỉ có các doanh nhân Đài Loan, mà cả các nhà máy lớn thuộc chuỗi cung ứng của Apple của Trung Quốc, như Foxconn, dự kiến sẽ mở rộng nhà máy tại Việt Nam trong năm nay. Công ty nước ngoài lớn nhất của Việt Nam, Samsung, cũng đã tuyên bố sẽ tiếp tục đầu tư và chi 220 triệu đô la Mỹ để xây dựng Trung tâm nghiên cứu hoàn toàn mới tại Hà Nội.

Chính quyền Việt Nam dự đoán rằng trong năm nay, quy mô đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) sẽ quay trở lại mức cao nhất từ trước dịch, chỉ xếp sau Singapore và Indonesia trong khu vực ASEAN.

“Bây giờ, cả thế giới đều kết nối với Việt Nam,” Phó Chủ tịch Ủy ban Pháp luật Hiệp hội Doanh nhân Châu Âu tại Việt Nam, ông Schneider nói. Việt Nam luôn có nhiều thỏa thuận thương mại tự do, và bây giờ nó còn có thêm cơ hội để thay thế Trung Quốc trong vai trò nhà máy của thế giới.

Người Việt Nam luôn tự hào về việc họ là quốc gia duy nhất đã đánh bại cả Mỹ và Trung Quốc – hai đại cường. Cả bảo tàng lịch sử quân sự ở Hà Nội và bảo tàng về di tích chiến tranh của Hồ Chí Minh ở miền Nam ghi chép lịch sử vinh quang khi các đội du kích Việt Cộng đã khiến cho quân đội Mỹ phải rút lui sau những năm chiến đấu mỏi mệt.

Ở trung tâm thành phố Hồ Chí Minh, có một tượng  tướng năm tầng cao, tượng tướng Trần Hưng Đạo, và vào năm 2019 khi Việt Nam và Trung Quốc có xung đột về lãnh thổ biển Đông, người dân Việt Nam đã đốt hương và cúi đầu trước bàn thờ tượng đồ tướng này, thể hiện sự kiên quyết chống lại Trung Quốc.

Tuy nhiên, khác với quá khứ, xung đột giữa các siêu cường không khiến Việt Nam sụp đổ vào cuộc nội chiến. Thay vào đó, Việt Nam đã biến đổi mình từ một quốc gia thể thao thành một quốc gia trưởng thành trong cuộc chạy đua giữa Mỹ và Trung Quốc.

Bức tượng ở Phố sách Hồ Chí Minh ghi Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam

Từ chối rửa nguồn cung! Biden gửi bán dẫn

Trong tháng 9, Tổng thống Mỹ Joe Biden cùng với các công ty công nghệ cao đã đến thăm Hà Nội, nơi mối quan hệ song phương đã tăng lên hai bậc, khi Mỹ và Việt Nam cùng xác lập mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Trong khi đó, tập đói bán dẫn Mỹ, Amkor, đã tuyên bố đầu tư 1,6 tỷ USD để xây dựng một nhà máy đóng gói bán dẫn ở tỉnh Bắc Ninh gần Hà Nội.

Ngay sau khi Tổng thống Biden rời đi, chưa đến 3 tuần, Reuters đã tiết lộ một thông tin độc quyền rằng Chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình, có thể thăm Việt Nam vào cuối tháng 10 hoặc đầu tháng 11.

Người ta gọi Đại sứ Đặng Minh Khôi là “Người dùng giờ Đài Loan” ở lĩnh vực ngoại giao, ông đã đảm nhận chức vụ Đại sứ Đại diện Kinh tế Văn hóa của Đài Bắc tại Hà Nội trong hơn 6 năm. Ông Đặng Minh Khôi lý giải rằng sự tái cấu trúc chuỗi cung ứng, kết hợp vị trí chiến lược trên biển Nam Hải, hiện tại, cả Trung Quốc và Mỹ đều không thể xem nhẹ Việt Nam.

“Chúng tôi muốn bán dẫn, công nghệ cao, phát triển năng lượng tái tạo, kinh tế số, xây dựng trung tâm tài chính quốc tế,” Trong một buổi họp giới thiệu đầu tư gần đây, Giám đốc Sở Đầu tư nước ngoài của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam, ông Đỗ Nhất Hoàng, đã nói rất mạnh mẽ về mục tiêu hút đầu tư của họ.

Khi xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng, Cảng Hải Phòng, cảng lớn nhất miền Bắc Việt Nam, đã phải mở rộng xây dựng các bến nước sâu. Trong ảnh là nhà ga liên doanh của Evergreen Marine tại Hải Phòng.

Trong quá khứ, trọng tâm chính sách kinh tế và thương mại đã là việc ký kết các Hiệp định Thương mại tự do, để thuận tiện cho việc các công ty nước ngoài thiết lập nhà máy và xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên, gần đây, các quan chức Việt Nam đã bày tỏ một sự thay đổi trong trọng tâm này.

Mặc dù Việt Nam vẫn phải nhập khẩu nguyên liệu và hàng trung gian từ Trung Quốc, nhưng trong những năm gần đây, nước này đã bị Mỹ theo dõi, nghi ngờ rằng các công ty Trung Quốc đang lợi dụng Việt Nam như một “điểm làm sạch nguồn gốc sản phẩm.” Để ngăn chặn hiện tượng này, ông Chen Yi-Qian, một kế toán viên hành nghề của Công ty Kiên Tâm Cổ phần Trách nhiệm hữu hạn, đã phát hiện rằng Việt Nam đã bắt đầu tăng cường giám sát tại biên giới hải quan. “Chỉ có cách này mới có thể tránh được sự xâm phạ của cơ sở thuế,” ông Chen Yi-Qian nhấn mạnh.”

 

Một tổng giám đốc của một tập đoàn điện tử lớn cũng tiết lộ rằng chính quyền Việt Nam đang ngày càng quan tâm xem vốn đầu tư nước ngoài có đóng góp thực sự vào việc nâng cấp công nghệ của Việt Nam hay không. ‘Trước kia, khi chúng tôi đầu tư vào Trung Quốc, các quan chức địa phương thường hỏi chúng tôi cần hỗ trợ gì? Nhưng Việt Nam khác, các quan chức bây giờ đang hỏi, ‘Bạn đã thuê bao nhiêu nhân viên địa phương? Bạn đã đóng bao nhiêu thuế?”” Anh ta nói, so sánh cách các quan chức ở hai nước đối xử với vốn đầu tư nước ngoài, điều này rất rõ ràng.

Chính quyền vừa muốn nâng cao giá trị của ‘Made in Vietnam,’ đồng thời cũng đang thúc đẩy quá trình nâng cấp sản xuất cho các doanh nghiệp địa phương.

Doanh nhân trẻ mơ xây dựng thương hiệu quốc gia

Xét về thương hiệu xe điện đầu tiên của Việt Nam được niêm yết tại Mỹ, VinFast, về mặt bề ngoài, nó là một ước mơ lớn về xe điện thuộc sở hữu của tập đoàn tài chính lớn nhất Việt Nam, Tập đoàn Vin, đã tập hợp các đối tác quốc tế để xây dựng xe điện sản xuất trong nước từ con số không. Tuy nhiên, thực tế, Tập đoàn Vin đang thông qua dự án xe điện cao cấp này để phát triển chuỗi cung ứng sản xuất xe điện hoàn chỉnh nhất trong nước.

“Việt Nam không nghèo, và Việt Nam không có cuộc chiến tranh!” Đó là những lời tuyên bố mạnh mẽ từ ông Nguyễn Văn Thanh, người đã từng là Phó Tổng Giám đốc của VinFast và hiện nay là Giám đốc Tổng công ty Di chuyển xanh và Thông minh của Tập đoàn Vin, trong cuộc phỏng vấn độc quyền với tạp chí CommonWealth Magazine.

Dưới 30 tuổi, ông là một trong những cấp quản trị trẻ tuổi nhất của Tập đoàn Vin. Khi được hỏi tại sao ông tham gia vào công việc này, câu trả lời của ông là một khát vọng lớn lao: ‘Tôi muốn nâng cao thương hiệu quốc gia Việt Nam.’

Nguyễn Văn Thanh không phải là một trường hợp đặc biệt. Dù bạn đang phỏng vấn một công ty khởi nghiệp mới về xe máy điện như Selex Motors, hoặc tham gia vào Tuần lễ khởi nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh, việc giúp Việt Nam xây dựng thương hiệu sản xuất quốc gia là ước mơ quốc gia của hầu hết các doanh nhân trẻ.

Tuy nhiên, để đạt được sự nâng cấp trong sản xuất, Việt Nam phải đối mặt với hai rào cản rõ ràng.

Khó khăn 1: Khó khăn trong việc chống tham nhũng và thiếu hạ tầng

Đầu tiên, vấn đề tham nhũng và thiếu hạ tầng là hai rào cản lớn nhất hiện nay đối với Việt Nam.

Người Việt thường nói, ‘Trung Quốc đi qua sông bằng cách sờ từng viên đá, còn Việt Nam đi qua sông bằng cách sờ theo Trung Quốc.’ Cả hai đều là các nước xã hội chủ nghĩa, nhưng Việt Nam đã tích cực học hỏi từ Trung Quốc, và cũng đã triển khai kế hoạch phát triển kinh tế hàng năm.

Tuy nhiên, sau khi Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, hiệu suất của các quan chức địa phương đã liên quan mật thiết đến phát triển kinh tế. Trong khi đó, các quan chức địa phương tại Việt Nam vẫn đang đối mặt với vấn đề tham nhũng và hiệu quả làm việc kém.

Cơ sở hạ tầng của Việt Nam phát triển còn chậm, Hà Nội phải mất hơn chục năm mới xây dựng được một tuyến đường sắt nhẹ, cuối cùng chỉ hoàn thành được 13 km và người dân coi đây là cơ sở du lịch nghỉ dưỡng.

Đến ngày hôm nay, khi bạn lái xe trên cao tốc ở Việt Nam, bạn sẽ thấy còn có cảnh sát mặc đồ đồng phục tại các cửa ra vào, đứng hai hoặc ba người dọc bên đường, sẵn sàng kiểm tra biển số xe và yêu cầu người dân đóng tiền hối thúc, mà thường được gọi là ‘tiền cà phê,’ một khoản hối lộ.”

Nếu tính cả nền kinh tế ngầm, kích thước nền kinh tế của Việt Nam đã lâu đã xếp vào tốp ba lớn ở Đông Nam Á,” Kevin, một doanh nhân 26 tuổi đến từ Hà Nội, tự mỉm cười nói.

Hiệu quả hành chính chưa được cải thiện, tác động rõ ràng nhất là cơ sở hạ tầng lạc hậu.

Ở khắp Việt Nam, bạn có thể thấy có nhiều công trình hạ tầng đã được khởi công hơn mười năm nhưng vẫn chưa hoàn thành.

Vì lượng doanh nghiệp tăng cao và sự phụ thuộc vào năng lượng thủy điện của Việt Nam, cộng với biến đổi khí hậu và hệ thống lưới điện cũ kỹ, khu vực Bắc Bộ đã trải qua cúp điện đột ngột lần đầu tiên vào tháng 5 năm nay, làm ảnh hưởng đến khả năng sản xuất của các nhà máy.

‘Một số chúng tôi trong ngành điện tử Đài Loan đã thiết lập một nhóm trò chuyện trực tuyến trên ứng dụng Line để thảo luận hàng ngày về vấn đề này,’ một doanh nhân lớn thở dài mà không biết phải làm gì.”

Khó khăn 2: Phân phối không đồng đều của lực lượng lao động

Cùng với vấn đề hạ tầng, lực lượng lao động trẻ tuổi trước đây là lợi thế sản xuất của Việt Nam, nhưng hiện nay đã trở thành một điểm đau đầu của các doanh nghiệp.

Hồ Chí Minh tràn đầy sức trẻ và sức sống

Vào cuối tháng 8, khi tạp chí CommonWealth Magazine thực hiện chuyến thăm ở Bắc Bộ và Nam Bộ, tôi đã gặp được các doanh nhân, học giả và thậm chí các quan chức đang bàn luận về vấn đề ‘thiếu công nhân’ tại Việt Nam.

Xem xét phân bố dân số của Việt Nam, có tới 60% dân số tập trung ở Nam Bộ, nhưng các doanh nghiệp nhập cư vào Việt Nam tất cả đều tập trung ở Bắc Bộ, dẫn đến sự không cân đối rõ rệt giữa cung và cầu.

Trong giới doanh nghiệp, có đồn đại rằng vì người Việt thường rất ‘mê gia đình,’ việc tuyển dụng nhân viên từ các tỉnh khác rất khó khăn. Tuy nhiên, ngoài lý do đó, có thể còn là sự hiểu biết không đủ về văn hóa Việt Nam.”

Người ngoại quốc có thể khó hiểu, nhưng tại Việt Nam, tinh thần tự trọng vùng miền rất mạnh mẽ. Người dân thường không muốn di chuyển giữa các tỉnh hoặc từ miền Nam sang miền Bắc, họ thậm chí chọn đi làm việc ở nước ngoài hơn,’ giáo sư tại Đại học Fulbright Việt Nam, ông Nguyễn Thành Chung, giải thích.

Thứ hai, các nhà đầu tư nước ngoài đang quan tâm đến các nhân tài kỹ thuật cao tại Việt Nam. Bỏ qua việc hệ thống giáo dục cao cấp của Việt Nam vẫn đang đứng sau trên bảng xếp hạng quốc tế, theo dữ liệu từ ông Trần Hòa Hiền, Đại sứ Đặc mệnh của Bộ Giáo dục tại Thành phố Hồ Chí Minh, mỗi năm chỉ có hơn 90.000 sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, và Toán), và cả các doanh nghiệp công nghệ nước ngoài lẫn doanh nghiệp phần mềm trong nước đều đang cạnh tranh để thu hút cùng một lượng người.

‘Việt Nam đang mơ mộng lớn, nhưng nếu không có cơ sở phát triển kinh tế như Trung Quốc, có lẽ sẽ khó để trở thành một ‘Trung Quốc thứ hai,” một doanh nhân Hàn Quốc có hơn 20 năm kinh nghiệm đầu tư tại Việt Nam nhận định.

Các biến cố phức tạp trong quá trình phát triển hiện nay thực tế rất giống như việc lái xe tại Việt Nam. Khi bạn đến Việt Nam, điều đầu tiên mọi người thường nói cho bạn biết là, nếu bạn không đủ gan, nếu bạn tuân thủ quá nhiều luật lệ, bạn sẽ không bao giờ qua đường.

‘Mọi người đều lái xe rất chậm, nhìn xung quanh, kiểm tra phía trước và phía sau, và sau cùng họ vẫn có thể tiến lên,’ mô tả của ông Wang Kunsheng, một doanh nhân Đài Loan đã kinh doanh tại Việt Nam hơn 20 năm.

Nhưng việc tiến lên bằng cách dựa vào sự thỏa thuận cá nhân không thể trở thành một chiến lược quốc gia bền vững.

Dưới sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc, liệu Việt Nam có thể nắm bắt cơ hội lịch sử không? Đối thủ lớn nhất của họ không phải ai khác, mà chính là họ tự mình.

Nguồn:天下雜誌 |連結

Tham khảo dịch vụ của SIA |連結

Tính đến hiện tại, những ‘con hổ’ châu Á đã đầu tư bao nhiêu tiền vào Việt Nam?

Khi đề cập đến những “con hổ” châu Á sẽ thường nhắc đến 4 nền kinh tế tăng trưởng cao tại châu Á, bao gồm Hong Kong (Trung Quốc), Singapore, Hàn Quốc và Đài Loan. Được thúc đẩy bởi xuất khẩu và công nghiệp hóa nhanh chóng, những nền kinh tế này đã liên tục duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao kể từ những năm 1960, và đã cùng nhau gia nhập hàng ngũ các quốc gia giàu có nhất thế giới.

Theo đó, Hong Kong (Trung Quốc) và Singapore là một trong những trung tâm tài chính nổi tiếng nhất thế giới, trong khi Hàn Quốc và Đài Loan (Trung Quốc) là những trung tâm thiết yếu cho sản xuất ô tô và linh kiện điện tử toàn cầu, cũng như công nghệ thông tin.

Những 'con hổ' châu Á đã đầu tư bao nhiêu tiền vào Việt Nam trong hai

Tính đến hiện tại, 4 con hổ châu Á đã đầu tư bao nhiêu tiền vào Việt Nam? 

Đài Loan (Trung Quốc)

Với tổng vốn đăng ký bao gồm vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp đạt 1,5 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm, Đài Loan (Trung Quốc) là nền kinh tế đầu tư vào Việt Nam lớn thứ 6 trong 9 tháng đầu năm 2023, sau Singapore. Trong đó, có 148 dự án được cấp mới, với số vốn đăng ký cấp mới đạt 1 tỷ USD; 82 dự án đăng ký điều chỉnh vốn, với vốn đăng ký đièu chỉnh đạt 263 triệu USD; 173 dự án góp vốn mua cổ phẩn với tổng giá trị đạt 258 triệu USD.

Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/9/2023, Đài Loan là đối tác có tổng vốn đầu tư lớn thứ 4 trên tổng số 144 đối tác đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam, với 3.052 dự án còn hiệu lực, tương đương với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 37,9 tỷ USD.

Singapore

Theo báo cáo về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Singapore là quốc gia đầu tư vào Việt Nam nhiều nhất trong 9 tháng đầu năm 2023. Cụ thể, tính từ đầu năm đến ngày 20/9/2023, tổng vốn đăng ký bao gồm vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp đạt 3,9 tỷ USD. Trong đó, có 283 dự án được cấp mới, với số vốn đăng ký cấp mới đạt 2,6 tỷ USD; 101 dự án đăng ký điều chỉnh vốn, với vốn đăng ký đièu chỉnh đạt 358,7 triệu USD; 235 dự án góp vốn mua cổ phẩn với tổng giá trị đạt 1 tỷ USD.

Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/9/2023, Singapore là đối tác có tổng vốn đầu tư lớn thứ hai trên tổng số 142 đối tác đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam, với 3.384 dự án còn hiệu lực có tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 73 tỷ USD.

Hàn Quốc

Trong 9 tháng đầu năm 2023, tổng vốn đăng ký bao gồm vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của các nhà đầu tư Hàn Quốc đạt 2,6 tỷ USD, xếp thứ 4 trên tổng số 102 nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam.

Trong đó, có 353 dự án được cấp mới, với số vốn đăng ký cấp mới đạt 511 triệu USD; 249 dự án đăng ký điều chỉnh vốn, với vốn đăng ký đièu chỉnh đạt 1,86 tỷ USD; 724 dự án góp vốn mua cổ phẩn với tổng giá trị đạt 2,6 tỷUSD.

Mặc dù lượng vốn đầu tư Hàn Quốc rót vào Việt Nam chỉ cao thứ 4 trong 9 tháng đầu năm 2023, nhưng nếu xét luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/9/2023, Hàn Quốc là đối tác có tổng vốn đầu tư vào Việt Nam lớn nhất trong tổng số 144 đối tác đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam. Cụ thể, có 9.786 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 82,9 tỷ USD.

Hong Kong (Trung Quốc)

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng vốn đăng ký bao gồm vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp các nhà đầu tư Hong Kong (Trung Quốc) đã đầu tư vào Việt Nam đạt khoảng 1,9 tỷ USD trong 9 tháng đầu năm 2023. Trong đó, có 212 dự án được cấp mới, với số vốn đăng ký cấp mới đạt 1,4 tỷ USD; 71 dự án đăng ký điều chỉnh vốn, với vốn đăng ký đièu chỉnh đạt 296 triệu USD; 61 dự án góp vốn mua cổ phẩn với tổng giá trị đạt 119 triệu USD.

Luỹ kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 20/9/2023, Hong Kong là đối tác có tổng vốn đầu tư lớn thứ 5 trên tổng số 144 đối tác đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào Việt Nam, với 2.368 dự án còn hiệu lực có tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 31,3 tỷ USD.

Nguồn: CafeF | Link

Tham khảo các dịch vụ của SIA | Link 

Giá thuê đất khu công nghiệp ở Việt Nam dự kiến tăng 6-10% trong 2 năm tới

Báo cáo của CBRE Việt Nam đưa ra dự báo trong 2 năm tới, giá thuê đất công nghiệp dự kiến tăng ở ngưỡng 6-10%/năm tại cả phía Bắc và phía Nam.

Giá thuê đất khu công nghiệp dự kiến tăng 6-10% trong 2 năm tới

Nhu cầu khả quan tới từ nhiều nhóm ngành và nhiều quốc tịch thuê giúp thúc đẩy giá thuê tăng trưởng tại nhiều địa phương. Trong khi, giá thuê kho xưởng xây sẵn dự báo tăng nhẹ từ 2% – 4%/năm trong hai năm tới.

Trong 9 tháng năm nay, các khách thuê tới từ Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Mỹ và Liên minh châu Âu là các nhà đầu tư tích cực tìm kiếm đất công nghiệp và kho xưởng tại thị trường Việt Nam. Số này chiếm khoảng 70-80% số lượng hỏi thuê tới CBRE tại khu vực phía Nam và phía Bắc.

Với việc Việt Nam tiếp củng cố quan hệ hợp tác với các đối tác chiến lược toàn diện như Mỹ, Hàn Quốc hay Trung Quốc trong thời gian gần đây, các khách thuê đến từ các quốc gia này dự kiến sẽ tiếp tục dẫn dắt nguồn cầu thị trường BĐS công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.

Bà Phạm Ngọc Thiên Thanh, Trưởng Bộ phận Nghiên cứu và Tư vấn của CBRE Việt Nam, chia sẻ: Diện tích hấp thụ của toàn thị trường trong năm nay dự kiến sẽ cao hơn so với năm trước cho thấy sự hồi phục của nguồn cầu. CBRE ghi nhận tình hình hoạt động khả quan đặc biệt ở loại hình đất công nghiệp và nhà xưởng với nguồn cầu đa dạng. Nguồn cầu chính đối với nhà xưởng xây sẵn đến từ đa dạng các ngành nghề như may mặc, dược phẩm, điện tử…

Đại diện CBRE cũng cho rằng, nhu cầu thuê kho ghi nhận sự phục hồi ấn tượng so với quý trước với các giao dịch lớn đến từ các doanh nghiệp logistics. Về xu hướng trong tương lai, xu hướng phát triển bền vững và công nghệ cao liên tục thu hút sự quan tâm của các chủ đầu tư và doanh nghiệp. Tiêu chí xanh đang dần trở thành một trong những tiêu chí quan trọng trong việc phát triển nhà máy và nhà kho, nhà xưởng, thúc đẩy sự phát triển của các khu công nghiệp xanh trong tương lai.

Số liệu của CBRE chỉ ra trong quý III, tại thị trường công nghiệp miền Nam, tỷ lệ lấp đầy ở các khu công nghiệp trung bình đạt 81,9%. Tỷ lệ hấp thụ đất công nghiệp đạt hơn 190 ha, tăng 6% so với quý trước. Tính chung 9 tháng đạt hơn 770 ha, cao hơn 20% so với cả năm 2022.

Về giá thuê, giá thuê đất công nghiệp trung bình tại các thị trường cấp 1 ở miền Nam đạt 189 USD/m2/kỳ hạn còn lại, tiếp tục tăng nhẹ 1% so với quý trước và cao hơn 13% so với cùng kỳ năm ngoái. Thị trường ghi nhận các giao dịch lớn đến từ các doanh nghiệp Trung Quốc và Nhật Bản với đa dạng các ngành công nghiệp như cơ khí, hóa chất, nhựa, cao su, điện tử.

Tại khu vực phía Bắc, tỷ lệ lấp đầy trung bình của các khu công nghiệp tại thị trường cấp 1 đạt 80,2%, giảm 2,4 điểm phần trăm so với quý II và tăng 0,4% điểm phần trăm theo năm. Diễn biến giảm tỷ lệ lấp đầy theo quý đến từ việc các khu công nghiệp mới đi vào hoạt động tại thị trường Bắc Ninh và Hưng Yên khiến tổng nguồn cung đất công nghiệp tăng thêm 597ha.

Về nguồn cầu, thị trường tiếp tục ghi nhận các giao dịch lớn từ các khách thuê ngành sản xuất nhựa, dệt may, kính áp tròng tại nhiều tỉnh thành. Tỷ lệ hấp thụ đất công nghiệp tại các thị trường cấp 1 đạt 251 ha trong quý. Tính tổng cộng chín tháng đầu năm, tỷ lệ hấp thụ đat hơn 700 ha, cao hơn 18% so với mức hấp thụ của cả năm trước. Giá thuê đất công nghiệp tiếp tục tăng do nhu cầu khả quan, cụ thể giá thuê trung bình cho thị trường cấp 1 ở miền Bắc đạt 131 USD/m2/kỳ hạn còn lại, tăng 2% theo quý và 12% theo năm.

Trong 9 tháng đầu năm, thị trường miền Nam và miền Bắc lần lượt ghi nhận 450.000 m2 và 752.000 m2 kho xưởng mới đi vào hoạt động. Với lượng nguồn cung mới dồi dào, giá thuê kho và xưởng xây sẵn tương đối ổn định, giá thuê trung bình đạt mức 4,5 USD/m2/tháng đối với nhà kho và 4,9 USD/m2/tháng đối với nhà xưởng tại thị trường phía Nam.

Tỷ lệ lấp đầy nhà kho xây sẵn đạt 56%, giảm 15 điểm phần trăm so với quý II và 13 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó tỷ lệ lấp đầy nhà xưởng xây sẵn vẫn luôn duy trì ở mức tốt, đạt 91% tăng 1 điểm phần trăm so với quý II. Đối với thị trường phía Bắc, giá thuê kho trung bình ở ngưỡng 4,6 USD/m2/tháng và xưởng đạt 4,8 USD/m2/tháng.

Tỷ lệ lấp đầy của các dự án xưởng xây sẵn tại thị trường cấp 1 đạt 82,9%, tăng 4,7 đpt so với quý trước. Đối với thị trường kho xây sẵn, các giao dịch chính vẫn đến từ các thị trường tập trung nguồn cung lớn như Bắc Ninh, Hải Phòng. Nguồn cầu chủ đạo vẫn tới từ các đơn vị 3PL, các công ty sản xuất mặt hàng ăn uống. Tỷ lệ lấp đầy phân khúc kho xây sẵn đến hết quý III/2023 đạt 76,8% tăng 1,2 đpt so với quý trước.

Nguồn:Dan Tri News| Liên kết
Tham khảo thêm các dịch vụ SIA|Liên kết

Tổng quan thị trường Việt Nam

Vietnam fails to halt treaty claim by dual national - Global Arbitration Review

Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam

Suốt qua lịch sử, Việt Nam đã trải qua những sự biến đổi đáng kể. Ban đầu là một xã hội nông nghiệp, sau đó đã tiến hóa thành một trong những nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á. Ngày nay, ngoài việc duy trì nguồn gốc nông nghiệp, Việt Nam còn tích cực tham gia vào kinh doanh hiện đại và đứng đầu trong lĩnh vực công nghệ.

Đất nước này đã trở thành một câu chuyện thành công về phát triển, từ một trong những quốc gia nghèo nhất trở thành một nền kinh tế thu nhập trung bình trong một thế hệ. Khi Việt Nam tiến bộ, nó kết hợp các thực hành truyền thống với các đổi mới đương đại, tạo ra một bức tranh đầy cơ hội – nhưng không thiếu những thách thức độc đáo.

Tăng trưởng GDP

Từ năm 2002 đến năm 2021, GDP bình quân đầu người đã tăng gấp hơn ba lần, gần đạt mức khoảng 3.700 đô la Mỹ. Đến năm 2020, tỷ lệ nghèo (dựa trên 3,65 đô la Mỹ/ngày, PPP năm 2017) đã giảm xuống còn 3,8%, giảm so với 14% vào năm 2010.

Nhờ vào nền kinh tế ổn định, nền kinh tế của Việt Nam đã thể hiện tính bền vững trong nhiều thách thức khác nhau. Dự kiến sẽ có sự giảm tỷ suất tăng trưởng GDP xuống còn 6,3% vào năm 2023, so với 8% trong năm trước, do sự giảm tốc cả trong tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Tuy nhiên, đến năm 2024, tỷ suất tăng trưởng kinh tế của đất nước có thể sẽ tăng lên mức 6,5%, khi dự kiến rằng tỷ lệ lạm phát nội địa sẽ ổn định. Sự dịch chuyển tích cực này có thể được thúc đẩy bởi sự phục hồi năng lượng của các đối tác xuất khẩu chính của nước, bao gồm Hoa Kỳ, Eurozone và Trung Quốc.

Trong vòng 30 năm qua, ngành nông nghiệp, với mức tăng trưởng hàng năm từ 2,5 đến 3,5%, đã đóng một vai trò quan trọng trong việc củng cố nền kinh tế và duy trì nguồn cung ứng thực phẩm. Vào năm 2020, nó chiếm 14% tỷ trọng trong GDP và cung cấp việc làm cho 38% lực lượng lao động.

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Mặc dù đã có sự suy giảm nhẹ trong những năm gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng đáng kể trong vòng hai thập kỷ qua, từ 1,3 tỷ đô la vào năm 2001 lên 15,66 tỷ đô la vào năm 2021.

Trong 7 tháng đầu năm 2023, nó tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước lên 11,58 tỷ đô la, trong khi cam kết FDI tăng 4,5% so với năm trước lên 16,24 tỷ đô la. Các ngành công nghiệp sản xuất và chế biến sẽ nhận được số lượng đầu tư lớn nhất, tiếp theo là lĩnh vực bất động sản.

Các thị trường phát triển và thị trường có tiềm năng tăng trưởng cao

Phong cảnh kinh tế của Việt Nam được đánh dấu bởi sự phát triển động đỉnh qua nhiều ngành:

  • Ngành Năng lượng đang thúc đẩy việc chuyển sang nguồn năng lượng tái tạo, với sự dẫn đầu của điện gió và năng lượng mặt trời do ưu điểm địa lý của Việt Nam. Tuy nhiên, hạ tầng và chi phí ban đầu đặt ra những thách thức.
  • Ngành Du lịch thịnh hành dựa trên những giá trị văn hóa và thiên nhiên phong phú của quốc gia, nhưng phải đối mặt với áp lực từ việc du lịch quá tải và các sự kiện toàn cầu như đại dịch.
  • Ngành Công nghệ thông tin, Thương mại điện tử và Dịch vụ số đang nở rộ, được thúc đẩy bởi giới trẻ đam mê công nghệ và hệ sinh thái khởi nghiệp đang trỗi dậy. Tuy nhiên, nó đối đầu với sự cạnh tranh trong khu vực và nhu cầu về giáo dục Công nghệ thông tin cao cấp.
  • Cuối cùng, Ngành Sản xuất đang thu hút sự chú ý khi các công ty toàn cầu xem xét Việt Nam như một lựa chọn có lợi hơn so với các trung tâm sản xuất châu Á đắt đỏ hơn. Sự thay đổi này được hưởng lợi từ các thỏa thuận thương mại chiến lược, nhưng quốc gia đối mặt với sự phụ thuộc vào nguyên liệu và nhu cầu về lao động có kỹ năng. Nghiên cứu thị trường chi tiết là cần thiết trước khi đầu tư.

Dân số và Nhân khẩu học của Việt Nam

Với gần 100 triệu dân, Việt Nam được đặc trưng bởi dân số trẻ tuổi, với 22,61% dưới 15 tuổi và độ tuổi trung bình là 31,9 tuổi. Tuy nhiên, dự kiến độ tuổi trung bình của dân số vào năm 2100 sẽ là 47,43.

Quốc gia này thể hiện một bức tranh dân tộc đa dạng, chủ yếu do nhóm dân tộc Kinh chiếm 85,3% dân số. Tuy nhiên, Chính phủ Việt Nam công nhận 54 dân tộc riêng biệt. Mặc dù tiếng Việt là ngôn ngữ chính thức, tiếng Anh đang nhanh chóng trở thành ngôn ngữ thứ hai phổ biến.

Quá trình đô thị hóa đang tiến triển, với 38,1% dân số sống tại khu vực đô thị vào năm 2021. Trào lưu di cư từ nông thôn sang đô thị được nhấn mạnh bởi sự gia tăng dân số ở các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, với 8,838 triệu dân, và Hà Nội, thủ đô, có 4,875 triệu dân. Phân bố dân số tập trung rõ rệt dọc theo biển Đông và vịnh Bắc Bộ, đặc biệt là ở Đồng bằng Sông Cửu Long và vùng lưu vực Sông Hồng.

Về phân phối giới tính, có sự ưu thế nhẹ về giới nam với tỷ lệ giới tính dân số tổng cộng là 1,01 nam mỗi nữ. Tuy nhiên, khi tuổi tác tăng lên, sự cân bằng này thay đổi, với số lượng nữ nhiều hơn nam đáng kể trong nhóm tuổi trên 65.

Thu nhập ở Việt Nam được phân phối tương đối tốt, với 21% kiếm giữa 15.000.000 – 19.000.000 VND và 17% chiếm cả hai mốc thu nhập từ 20.000.000 – 24.999.999 VND và 10.000.000 – 14.999.999 VND. 3% kiếm ít hơn 5.000.000 và 7% kiếm nhiều hơn 40.000.000 VND.

Người tiêu dùng và Xu hướng tiêu dùng của người Việt

Khi nền kinh tế Việt Nam phát triển, việc hiểu rõ sự thay đổi trong sở thích và hành vi của người tiêu dùng Việt Nam trở nên quan trọng để triển khai dự án kinh doanh thành công trong nước. Các công ty muốn thâm nhập vào thị trường này phải hiểu rõ những xu hướng này để điều chỉnh các sản phẩm và chiến lược của họ một cách hiệu quả.

Người tiêu dùng Việt Nam đang trưởng thành

Trong những năm gần đây, tầng lớp trung lưu của Việt Nam đã mở rộng cả về đa dạng và phạm vi địa lý. Cơ sở tiêu dùng không chỉ đang tăng mà còn trở nên phức tạp và có lựa chọn khó tính hơn. Dự đoán cho thấy, đến năm 2035, hơn một nửa dân số Việt Nam sẽ tham gia vào tầng lớp trung lưu toàn cầu.

Tầng lớp trung lưu đang mở rộng này đang tái hình thành cảnh kinh tế (và xã hội) của Việt Nam. Yêu cầu của họ bao gồm các sản phẩm và dịch vụ mới, và có sự đầu tư rõ rệt vào các lĩnh vực như giáo dục và bất động sản.

Nhạy bén về giá trị, nhưng sẵn sàng chi tiêu

Mô hình chi tiêu của tầng lớp trung lưu đang trên đà thay đổi. Hiệu ứng kết hợp của lạm phát và sự ưa thích các thương hiệu cao cấp đang thúc đẩy người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn cho một số sản phẩm và dịch vụ, nhưng không phải cho tất cả. Đồng thời, họ đang mua ít hơn tổng cộng và trở nên nhạy bén hơn về giá trị.

Xu hướng này thể hiện qua hai cách quan trọng:

– Cần thiết so với xa xỉ: Trong khi người tiêu dùng đang cắt giảm chi tiêu trong nhiều lĩnh vực, họ không đang cắt giảm chi tiêu cho những thứ cần thiết. Thực phẩm, nhiên liệu, đồ dùng gia đình và chăm sóc cá nhân vẫn được ưa chuộng. Nhiều người tiêu dùng sẵn sàng chi tiêu nhiều hơn cho các sản phẩm như vitamin, thuốc không cần đơn và sản phẩm thể dục. Nhưng ngược lại, việc ăn ngoài đang giảm đi.

– Ưu thích điểm giá: Khi nói đến những gì nằm trong giỏ hàng mua sắm của họ, người tiêu dùng đang nghiêng về hai cực: hàng hóa cao cấp chất lượng tốt hoặc các sản phẩm có giá trị xuất sắc cho số tiền của họ. Điều này có nghĩa là các sản phẩm nằm ở giữa, không được xem là xa xỉ hoặc rẻ tiền, có thể bị bỏ lại.

Ưu thích mua sắm đa kênh

Đại dịch đã thúc đẩy xu hướng mua sắm đa kênh và dường như nó đã vẫn đang tồn tại. Hầu hết người tiêu dùng, với tỷ lệ dao động từ 67% đến 88%, đã chấp nhận các lựa chọn thay thế cho việc mua sắm truyền thống tại cửa hàng và có kế hoạch tiếp tục vậy. Trong thực tế, từ 50% đến 75% người mua hàng không chỉ tìm hiểu mà còn thực hiện mua sắm thông qua các kênh đa nền tảng này. Sự phổ biến này tại Việt Nam có thể được gán cho các công ty công nghệ và truyền thông liên tục cải tiến trải nghiệm đa kênh của họ. Tuy nhiên, một số mặt hàng như thực phẩm và thực phẩm bổ sung thông thường được ưa chuộng tại cửa hàng.

Để làm nổi bật sự thay đổi này, hơn 65% người mua hàng Việt Nam cho rằng họ sẽ tiếp tục sử dụng các phương thức mua sắm mới này ngay cả sau đại dịch.

Đối với nhóm người tiêu dùng trẻ tuổi, truyền thông xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành thói quen mua sắm. Các nền tảng như Instagram, YouTube và TikTok đang thống trị, đặc biệt là đối với thế hệ Z, ảnh hưởng đến việc lựa chọn từ chăm sóc da đến giày dép, và thậm chí cả việc giao thức ăn. Có sự gia tăng đáng kể trong việc mua sắm dịch vụ kỹ thuật số và từ xa cũng đã diễn ra.

Ngày càng ít lòng trung thành đối với thương hiệu

Người tiêu dùng Việt Nam đang thể hiện sự thiếu lòng trung thành đối với cửa hàng và thương hiệu, thường xuyên điều chỉnh thói quen mua sắm của họ. Ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương, họ nổi bật với đặc điểm này: đến 90% đã chuyển đổi thương hiệu hoặc cửa hàng để mua sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể trong vòng ba tháng qua. Xu hướng chuyển đổi này còn rõ ràng hơn ở miền Nam Việt Nam, có lẽ do sự xuất hiện của các người mới tham gia vào thị trường.

Người mua hàng Việt Nam không chỉ thờ ơ đối với tên thương hiệu hoặc cửa hàng; họ cũng đang đa dạng hóa sở thích sản phẩm của họ. Điều này có thể được truy vết lại đến sự khao khát của họ về các sản phẩm cao cấp, kết hợp với sự tinh tế trong việc tìm kiếm giá trị tốt hơn. Trong thực tế, việc tìm kiếm giá trị tốt hơn thường thúc đẩy sự chuyển đổi thương hiệu, với chất lượng sản phẩm, tính độc đáo và sở thích cá nhân là những yếu tố chính khác.

Mua sắm mang tính mục đích hơn

Các xu hướng về sức khỏe và bền vững đang ngày càng được người tiêu dùng Việt Nam quan tâm. Ví dụ, ba phần tư người tiêu dùng được khảo sát dự định duy trì các thói quen lành mạnh như sử dụng ứng dụng sức khỏe và dịch vụ y tế từ xa.

Ngoài ra, khoảng 28% mong đợi các thương hiệu sẽ đi theo mục tiêu, phù hợp với giá trị của khách hàng và ưu tiên sức khỏe của nhân viên. Tuy nhiên, lo ngại về môi trường dường như là yếu tố phụ: chỉ có 24% người tiêu dùng coi việc sử dụng nguyên liệu thân thiện với môi trường và bao bì có thể tái chế là quan trọng, và chỉ có 31% sẵn sàng trả thêm hoặc chọn các thương hiệu đắt hơn để ủng hộ môi trường.

Ứng dụng siêu việt + Sự chấp nhận thanh toán số hóa

Trước đại dịch, đã có sự chuyển đổi đáng kể đến giao dịch số hóa cho các sản phẩm và dịch vụ. Xu hướng này đã được tăng tốc, dẫn đến một sự gia tăng lớn về các giao dịch không tiền mặt.

Việt Nam đang ở trong tình huống phát triển mạnh mẽ về thanh toán điện tử. Giá trị giao dịch tổng cộng trong lĩnh vực này được dự đoán sẽ tăng với tốc độ hàng năm 15.7% đến năm 2025. Với việc chỉ có 30% người trưởng thành Việt Nam hiện sử dụng ngân hàng số, còn không gian để mở rộng. Bằng cách khuyến khích và áp dụng các dịch vụ số hóa, bao gồm thanh toán điện tử, các doanh nghiệp Việt Nam có thể tiếp cận tiềm năng chưa khám phá này nhanh hơn.

Sự ưa chuộng lựa chọn sản phẩm địa phương hơn thương hiệu toàn cầu

Một nghiên cứu gần đây cho thấy rằng 76% người mua hàng Việt Nam có sự ưa thích đối với các thương hiệu địa phương hơn là thương hiệu toàn cầu. Sự kết hợp giữa chất lượng cao và giá cả hợp lý đã mang lại lợi thế cho các sản phẩm “Made-in-Vietnam” so với các đối thủ quốc tế, khiến chúng trở nên phổ biến hơn trên kệ siêu thị.

Dữ liệu từ Bộ Công Thương cho thấy rằng sản phẩm địa phương chiếm hơn 90% trong các siêu thị do người Việt sở hữu. Tỷ lệ này thay đổi tại các siêu thị do người nước ngoài sở hữu, dao động từ 60 đến 96%, và đứng ở mức khoảng 60% trong các cửa hàng bán lẻ truyền thống.

Chiến dịch “Người Việt Nam ưu tiên sản phẩm Việt Nam,” khởi đầu vào năm 2006, đã nâng cao sự quan trọng của các sản phẩm địa phương. Nhờ đó, nó đã củng cố lòng tin của người tiêu dùng vào sản phẩm trong nước, chúng không chỉ rõ nguồn gốc mà còn có chất lượng tương đương với hàng nhập khẩu.

Tóm tắt các điểm chính

  1. Tăng trưởng GDP ấn tượng trong những năm gần đây
  2. Kết nối kinh tế toàn cầu mạnh mẽ và tăng trưởng đáng kể về FDI
  3. Tầng lớp trung lưu đang mở rộng nhanh chóng, ảnh hưởng đến thói quen mua sắm hướng tới các thương hiệu cao cấp và các sản phẩm mang tính giá trị
  4. Có một xu hướng giảm sự trung thành với thương hiệu với 90% người đã chuyển đổi thương hiệu hoặc cửa hàng gần đây

Meet our consultants

 

Việt Nam có thể đón đợt bùng nổ FDI lần thứ tư

Việt Nam có thể sắp đón làn sóng đầu tư mới sau chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden tháng trước.

Sau 3 lần đón "đại bàng", Việt Nam có thể có đợt bùng nổ FDI lần thứ 4 | Báo Dân trí

Trong quá khứ, Việt Nam chứng kiến ba đợt bùng nổ đầu tư trực tiếp nước ngoài đáng kể. Lần đầu tiên xảy ra khi Honda Motor bắt đầu sản xuất xe hai bánh tại Việt Nam vào năm 1997. Làn sóng thứ hai kéo dài từ những năm 2000 đến năm 2008 khi ngân hàng Lehman Brothers (Mỹ) sụp đổ, gây ra khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trong khoảng thời gian này, Samsung Electronics đầu tư cơ sở sản xuất điện thoại thông minh tại Bắc Ninh năm 2009.

Lần bùng nổ thứ ba, dường như đã diễn ra mạnh mẽ vào giữa những năm 2010. Với sức mua ngày càng tăng, Việt Nam trở thành điểm đến lý tưởng cho các doanh nghiệp tiêu dùng nước ngoài. Đơn cử, gã khổng lồ bán lẻ Nhật Bản Aeon đã khai trương cửa hàng đầu tiên ở Việt Nam, Aeon Mall Tân Phú Celadon năm 2014.

Chuyến thăm vừa qua của Tổng thống Biden có thể kích thích làn sóng đầu tư của Mỹ vào Việt Nam, cơ hội hình thành làn sóng FDI thứ tư.

Trước đó, FDI của Mỹ vào Việt Nam được nhìn nhận là rất khiêm tốn so với các nước châu Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc. Tính đến cuối 2022, tổng vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam là 11,4 tỷ USD, đứng thứ 11 trong số các quốc gia, vùng lãnh thổ có rót vốn vào thị trường hơn 100 triệu dân này. Nếu so sánh, Hàn Quốc đang rót 80,9 tỷ USD, Singapore là 70,8 tỷ USD, Nhật Bản là 68,8 tỷ USD.

Hiện Việt Nam muốn chuyển hướng từ các ngành thâm dụng lao động truyền thống như dệt may, lắp ráp điện tử sang các ngành công nghệ cao, có giá trị gia tăng lớn. Sự hợp tác với các công ty công nghệ Mỹ, đặc biệt là các công ty chiếm vị thế trong lĩnh vực bán dẫn, AI, sẽ rất quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu công nghiệp đất nước.

Thủ tướng Phạm Minh Chính vừa qua đã yêu cầu xây dựng đề án phát triển nhân lực với mục tiêu đào tạo 30.000-50.000 kỹ sư, 100 chuyên gia về chuyển đổi số, sản xuất chip, bán dẫn. Việt Nam cũng đang cân nhắc các biện pháp, chính sách mới để thu hút các công ty đa quốc gia. Tuy nhiên, cần thêm thời gian để biết đợt bùng nổ FDI lần thứ tư tại Việt Nam có trở thành hiện thực không.

Tháng 9, trong khuôn khổ chuyến thăm Việt Nam, Tổng thống Joe Biden và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xác lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước. Chuyến đi của ông Biden cũng mang đến một số thương vụ kinh doanh lớn. Đơn cử, Vietnam Airlines đã ký thỏa thuận mua 50 máy bay Boeing 737 Max, trị giá khoảng 10 tỷ USD.

FPT Software cũng công bố hợp tác chiến lược với công ty khởi nghiệp Landing AI của Mỹ. Synopsys, chuyên về các giải pháp phần mềm thiết kế bán dẫn, IP và bảo mật phần mềm hàng đầu trong ngành cũng ký một biên bản ghi nhớ hợp tác giúp ngành bán dẫn Việt Nam đào tạo lao động.

Sau đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng có chuyến công tác tại Mỹ. Khi thăm trụ sở của gã khổng lồ sản xuất chip Nvidia, Thủ tướng đề nghị tập đoàn thành lập nhà máy tại Việt Nam, xem Việt Nam là cứ điểm ở Đông Nam Á. Ông cũng tiếp lãnh đạo một số tập đoàn công nghệ hàng đầu tại Mỹ như Bill Gates, Elon Musk.

Nguồn:VNEXPRESS| Liên kết
Tham khảo thêm các dịch vụ SIA|Liên kết

Ý nghĩa chiến lược của chuyến thăm của Tổng thống Biden đến Việt Nam

 Chủ tịch FCC Partners – Ông CY Huang

Tháng trước, Tổng thống Mỹ Biden thăm Việt Nam và nâng cấp mối quan hệ giữa hai quốc gia lên tầm “đối tác chiến lược toàn diện,” trong đó Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hoa Kỳ đã xác định “đổi mới” là một phần trong hợp tác chiến lược, bao gồm cả ngành công nghệ bán dẫn.

Gần đây, tại một cuộc họp thượng đỉnh có chủ đề “Kết nối Việt Nam với hệ sinh thái bán dẫn Đông Nam Á,” Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam đã phát biểu rằng Chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam từ năm 2021 đến năm 2030 đã xác định mục tiêu nhanh chóng thúc đẩy sự phát triển bền vững dựa trên khoa học, công nghệ, sáng tạo và chuyển đổi kỹ thuật số.

Việt Nam đã thành lập Trung tâm đổi mới quốc gia và ba khu công nghệ cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Thành phố Đà Nẵng, để sẵn sàng thu hút các nhà đầu tư vào ngành công nghiệp bán dẫn bằng các cơ chế kích thích cao. Đông Nam Á là một trong những khu vực phát triển nhanh nhất trên thế giới, việc kết nối Việt Nam với hệ sinh thái bán dẫn Đông Nam Á đại diện cho sự thúc đẩy ngành công nghiệp và định vị lại nó, cùng với việc tập đoàn Hana Micron từ Hàn Quốc vừa công bố đầu tư 10 tỷ đô la Mỹ để sản xuất chất bán dẫn tại Việt Nam.

Trong thời gian thăm Việt Nam, Biden cũng ký kết một thỏa thuận hợp tác về khoáng sản quý hiếm, nâng cao khả năng hấp dẫn đầu tư nước ngoài của Việt Nam vào khai thác tài nguyên quý hiếm. Với lượng khoáng sản quý hiếm lớn thứ hai trên thế giới, Việt Nam đã lên kế hoạch tái khai thác mỏ quý hiếm lớn nhất của mình vào năm sau, nhằm thách thức vị trí dẫn đầu của Trung Quốc trong thị trường khoáng sản quý hiếm. Hoa Kỳ có kế hoạch thiết lập một chuỗi cung ứng tài nguyên quý hiếm tại Việt Nam, để sử dụng trong ngành ô tô điện, điện thoại thông minh và ngành công nghiệp năng lượng gió.

Mục tiêu của Hoa Kỳ trong việc thúc đẩy ngành công nghiệp bán dẫn và khoáng sản quý hiếm tại Việt Nam là gì? Thứ nhất, đó là để thừa nhận vị trí chiến lược của chuỗi cung ứng của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á, đồng thời ủng hộ việc di dời chuỗi cung ứng khỏi Trung Quốc và hướng đến Ấn Độ, Việt Nam và México. Thứ hai, Mỹ muốn tập trung vào giai đoạn hàng đầu của chuỗi giá trị thay vì chỉ dựa vào lao động giá rẻ. Thứ ba, Mỹ không muốn ngành công nghiệp bán dẫn hoàn toàn nằm trong tay Đài Loan.

TSMC đã đặt nhà máy ở Hoa Kỳ, Nhật Bản và Đức do áp lực địa chính trị. Ấn Độ tự mình có tham vọng phát triển ngành công nghiệp bán dẫn, và Singapore đã thành lập cụm công nghiệp bán dẫn. Việt Nam trở thành một thị trường quan trọng mà Mỹ có thể thể hiện ảnh hưởng của mình trong lĩnh vực bán dẫn. Tuy nhiên, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tốt đẹp, và Việt Nam không có ý định tách khỏi Trung Quốc. Mỹ đang cố gắng giảm sức ảnh hưởng của Trung Quốc tại Đông Nam Á, trong khi Việt Nam cố gắng tận dụng công nghệ của Mỹ để mạnh mẽ hơn.

Hoa Kỳ và Trung Quốc đang cạnh tranh mạnh mẽ trên toàn cầu và đang cố gắng thu hút các đồng minh để hình thành liên minh. Gần đây, Biden đã thúc đẩy “Hành lang Ấn-Âu” để liên kết với Liên minh châu Âu, Ấn Độ và Trung Đông, dường như đang thách thức dự án “Một dây một sợi” của Trung Quốc. Ngoài ra, Mỹ đã mời 18 quốc đảo Thái Bình Dương đến Washington DC gần đây, cho thấy Mỹ đang cố gắng mở rộng phạm vi hơn ngoài nhóm G7 truyền thống và tiến tới xâm nhập các thị trường mới nổi. Kế hoạch của Tổng thống Trung Quốc Tập Cận Bình gần đây đến Hà Nội cho thấy rằng Biden đã đạt đến các vùng nhạy cảm của Trung Quốc.

“Kinh tế học theo Biden” tập trung vào việc chính phủ đầu tư mạnh mẽ vào các ngành công nghiệp quan trọng, xây dựng chuỗi cung ứng bản địa và cung cấp hỗ trợ tài chính. Nhiều trong những chính sách này học hỏi từ Trung Quốc, bao gồm cả chính sách công nghiệp quốc gia và dự án “Một dây một sợi,” nhưng kết quả vẫn cần thời gian để kiểm chứng. Nhà máy của TSMC tại Hoa Kỳ chứng tỏ rằng hệ sinh thái bán dẫn không dễ dàng được sao chép.

So sánh với điều này, việc Mỹ đầu tư vào tiền và công nghệ ở các quốc gia mới nổi, trong mục tiêu xây dựng đồng minh ngoại giao và kiềm chế Trung Quốc, dường như dễ dàng hơn việc hỗ trợ ngành công nghiệp tại nước. Các quốc gia mới nổi hiểu rằng Mỹ đã phải đối mặt với cuộc đình công của ngành công nghiệp ô tô, Trung Quốc đã trở thành một lãnh đạo về nguồn năng lượng sạch, nhưng chỉ có Mỹ có công nghệ trong ngành công nghiệp bán dẫn. Mặc dù Việt Nam khó mà trong thời gian ngắn có thể xây dựng một cụm công nghiệp bán dẫn, Mỹ vẫn có thể sử dụng lĩnh vực bán dẫn để đạt được mục tiêu ngoại giao.

Công nghiệp Đài Loan cần phải đề ra một chiến lược toàn cầu cho tương lai, nhưng câu hỏi là liệu chúng ta chỉ đóng vai một quân cờ trong việc giúp đỡ người khác thành công hay có khả năng lãnh đạo và tập hợp tài nguyên liên quan? Điều này xứng đáng được suy nghĩ sâu rộng. Nếu quá trình toàn cầu hóa không giúp mở rộng phạm vi của mình, thay vì thế, nó có thể gây phân tán tài nguyên và mất trung tâm, như đã thấy trong chiến lược điều hành toàn cầu gần đây của Ngân hàng Citibank.

Một ví dụ từ trường hợp của Huawei là Trung Quốc đã tích cực phát triển chuỗi cung ứng nội địa của riêng mình, điều này sẽ đẩy nhanh sự dịch chuyển của chuỗi cung ứng từ Đài Loan. Việc thách thức đối diện với các doanh nhân Đài Loan là môi trường kinh doanh bị kiểm soát bởi những người khác, khi Trung Quốc đang thống trị ngành công nghiệp ô tô và Hoa Kỳ kiểm soát ngành công nghiệp bán dẫn. Nếu Đài Loan xây dựng nhà máy tại nước ngoài mà bị tách rời khỏi hệ sinh thái công nghiệp, điều này sẽ làm cho việc tạo ra giá trị trở nên khó khăn, và yêu cầu kế hoạch cẩn thận cho vai trò của mình trong chuỗi cung ứng trong tương lai.

 

Nguồn: Union Daily News| Link

Tham khảo các Dịch vụa SIA cung cấp| Link

Việt Nam và xu hướng đa dạng hóa chuỗi cung ứng bán dẫn

Ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu đang đẩy mạnh các nỗ lực đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Và Việt Nam – một điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tư, đang đứng trước cơ hội trở thành một trung tâm sản xuất bán dẫn quan trọng trong khu vực.

Xu hướng đa dạng hóa trong chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu

Chất bán dẫn là thành phần quan trọng trong công nghệ cung cấp năng lượng cho thế giới hiện đại của chúng ta. Hầu như mọi thiết bị điện tử mà chúng ta sử dụng để điều hành công việc kinh doanh và sắp xếp cuộc sống đều chứa chất bán dẫn. Do vậy, không quá lời khi nói rằng những con chip nhỏ bé này là một trong những tài nguyên quý giá nhất thế giới.

Các số liệu thống kê cho thấy, mặc dù hoạt động sản xuất đã chậm lại trong năm 2022, ngành công nghiệp bán dẫn vẫn đạt doanh thu toàn cầu là 580,13 tỉ đô la với mức tăng trưởng 4,4%. Các nhà phân tích dự đoán rằng trong năm 2023, tổng doanh thu bán dẫn trên thế giới sẽ giảm xuống 515,10 tỉ đô la, nhưng sẽ lại phục hồi mạnh mẽ về mức 576 tỉ đô la vào năm 2024.

Tuy nhiên, bất chấp quy mô khổng lồ và tầm quan trọng địa chính trị toàn cầu của ngành công nghiệp bán dẫn, thị trường này rất dễ bị tổn thương trước sự gián đoạn chuỗi cung ứng – điều đã xảy ra một cách thường xuyên trong những năm đầu của thập niên 2020.

Đại dịch Covid-19, cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc và cuộc xung đột ở Ukraine đều góp phần gây ra sự gián đoạn lớn đối với chuỗi cung ứng bán dẫn. Trong khi nhu cầu của người tiêu dùng tăng vọt, ngành công nghiệp chip lại gặp khó khăn trong việc sản xuất và vận chuyển sản phẩm của mình. Tình trạng thiếu chất bán dẫn đã lan rộng trên toàn thế giới và tác động của nó vẫn còn có thể cảm nhận cho tới thời điểm hiện tại.

Việt Nam nhận thức rằng ngành công nghiệp chip non trẻ của mình khó có khả năng phát triển chip tiên tiến ở quy mô thương mại như Đài Loan (Trung Quốc) hay Hàn Quốc. Do vậy, các doanh nghiệp sẽ tập trung vào những ngóc ngách hỗ trợ các dòng sản phẩm cụ thể như chip quản lý điện năng, chip analog cho Internet, Internet vạn vật và hệ thống dựa trên ứng dụng chip.

Để ứng phó với nguy cơ gián đoạn chuỗi cung ứng tái diễn, các quốc gia và tập đoàn bán dẫn đang triển khai nhiều biện pháp ứng phó. Một trong những giải pháp quan trọng hơn cả chính là sự đa dạng hóa hoạt động sản xuất bán dẫn, từ đó giảm thiểu hoặc loại bỏ nhiều vấn đề trong chuỗi cung ứng.

Mỹ, Hàn Quốc, châu Âu và Trung Quốc hiện đang nhanh chóng phát triển các nhà máy chế tạo của riêng mình nhằm đảm bảo nguồn cung và giảm sự phụ thuộc vào nước ngoài. Căng thẳng giữa Mỹ và phương Tây với Trung Quốc cũng khiến các công ty bán dẫn ngày càng đẩy mạnh chiến lược “Trung Quốc cộng 1”, nhằm dịch chuyển một phần hoạt động sản xuất sang các quốc gia ngoài Trung Quốc, từ đó giảm thiểu sự phụ thuộc và rủi ro vào nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Ấn Độ, và các quốc gia Đông Nam Á, trong đó bao gồm Việt Nam, được đánh giá là những điểm đến tiềm năng mà các công ty bán dẫn đang nhắm tới.

Làn sóng đầu tư gia tăng vào Việt Nam

Theo trang The Diplomat, chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Joe Biden tới Hà Nội hôm 10-9-2023 đã mở ra mối quan hệ sâu sắc hơn trên mọi lĩnh vực giữa Việt Nam và Mỹ. Và một trong những điểm nhấn đáng chú ý nhất, với những thành công cụ thể đáng ca ngợi chính là lĩnh vực bán dẫn.

Các giám đốc điều hành hàng đầu trong ngành công nghiệp bán dẫn Mỹ đã chứng kiến Tổng thống Joe Biden công bố các dự án AI của Nvidia và Microsoft, các trung tâm thiết kế bán dẫn mới tại TPHCM của Synopsys và Marvell, lễ khai trương cơ sở đóng gói chip Amkor trị giá 1,6 tỉ đô la Mỹ gần Hà Nội vào tháng 10, và một mối quan hệ đối tác bán dẫn Mỹ – Việt Nam, nhằm hỗ trợ cho các chuỗi cung ứng bán dẫn linh hoạt.

Tờ The Diplomat đánh giá, tính đến thời điểm hiện tại, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam vẫn đang tận dụng một cách thông minh sự độc lập về địa chính trị và nguồn vốn FDI để xây dựng nền tảng cho một cường quốc công nghệ.

Các hoạt động đầu tư trong số này là một phần của xu hướng đa dạng hóa chuỗi cung ứng mà các công ty bán dẫn hàng đầu của Mỹ đang triển khai, và được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam vươn lên trong ngành công nghiệp bán dẫn, hướng tới việc sản xuất các loại chip có giá trị cao hơn.

Trước đó, nhiều doanh nghiệp bán dẫn nước ngoài cũng đã triển khai các hoạt động đầu tư mạnh mẽ tại Việt Nam. Tập đoàn Intel của Mỹ hiện đang chuẩn bị mở rộng địa điểm lắp ráp, thử nghiệm và đóng gói chip (ATP) vốn đã có quy mô rất lớn của mình. Amkor cũng sẽ mở rộng cơ sở ATP hiện có của hãng, trong khi Synopsys đang chuyển hoạt động thiết kế EDA từ Trung Quốc sang Việt Nam.

Từ Hàn Quốc, Samsung đã đầu tư gần 1 tỉ đô la vào một cơ sở linh kiện bán dẫn hồi năm 2022 và có kế hoạch mở rộng cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên để sản xuất chip hoàn chỉnh vào năm 2023. Ngoài ra, hàng chục nhà cung cấp tại Hà Lan cho Công ty ASML cũng đang coi Việt Nam là địa điểm phù hợp để triển khai các hoạt động sản xuất.

The Diplomat nhận xét, nhiều yếu tố đã thúc đẩy sự trỗi dậy của luồng vốn đầu tư vào ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam. Những gián đoạn sản xuất do dịch bệnh tại Trung Quốc và mối quan hệ Mỹ – Trung ngày càng căng thẳng đã khiến các công ty ngày càng theo đuổi chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng, đưa hoạt động sản xuất tới các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam.

“Việt Nam đang trở thành quốc gia có vai trò then chốt trong sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu… Vị trí địa lý thuận lợi của Việt Nam và các khu công nghiệp đang phát triển có sức thu hút lớn với các nhà sản xuất. Quá trình chuyển đổi này nêu bật vai trò ngày càng tăng của Việt Nam trong kịch bản tái cấu trúc chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu, và đánh dấu một giai đoạn mới của nền kinh tế nước này”, chuyên gia kinh tế Maheshwari Bandari tại GlobalData đánh giá.

Bên cạnh đó, các chính phủ nước ngoài cũng khuyến khích sự thay đổi này như một cách để giảm sự phụ thuộc của quốc gia vào ngành sản xuất của Trung Quốc. Đề xuất của Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ Janet Yellen về việc Việt Nam có thể được hưởng lợi từ quỹ an ninh chuỗi cung ứng quốc tế trị giá 500 triệu đô la của Đạo luật Khoa học và CHIPS là minh chứng cho điều này.

Chiến lược thu hút đầu tư hợp lý

Theo The Diplomat, để thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bán dẫn, Chính phủ Việt Nam đã triển khai một chương trình ưu đãi được đánh giá là hấp dẫn và tương đối toàn diện.

Thứ nhất, Việt Nam đưa ra mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi 10% trong 15 năm, áp dụng cho các khoản đầu tư vào cả nghiên cứu và xây dựng cơ sở vật chất cho các lĩnh vực công nghệ cao, trong đó chất bán dẫn là ngành ưu tiên.

Thứ hai, Việt Nam cho phép các công ty và tổ chức nghiên cứu xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học được miễn thuế tài sản (tiền thuê đất) trong toàn bộ thời hạn thuê nếu cơ sở này được sử dụng để nghiên cứu, ươm mầm khởi nghiệp…

Thành phố lớn nhất Việt Nam, TPHCM, có một chương trình bổ sung trợ cấp một phần hoặc toàn bộ lãi vay cho các dự án đầu tư cụ thể. Chính quyền sẽ trợ cấp 50% lãi suất đối với các cơ sở R&D cho “các ngành công nghiệp hỗ trợ”, 70% lãi suất cho các hoạt động sản xuất cơ bản và 85% lãi suất cho việc mua công nghệ và thiết bị tiên tiến – với tổng số tiền lên tới 8,8 triệu đô la cho mỗi dự án. Chương trình này đóng vai trò hỗ trợ cho Chương trình Phát triển công nghiệp vi mạch của thành phố.

Bên cạnh đó, để khuyến khích các công ty thuê kỹ sư Việt Nam, thuế giá trị gia tăng (VAT) tiêu chuẩn 10% đối với dịch vụ được giảm xuống còn 5% đối với các hoạt động khoa học trong lĩnh vực công nghệ cao, như chất bán dẫn. Các hoạt động đủ điều kiện bao gồm từ nghiên cứu đến tư vấn chuyển giao công nghệ và đào tạo kỹ thuật.

Tuy nhiên, bên cạnh các ưu đãi, các nhà hoạch định chính sách cũng luôn cố gắng đảm bảo rằng các công ty nước ngoài sẽ hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực kỹ thuật nội địa, từ đó giành được phần lợi nhuận lớn hơn từ các sản phẩm cuối cùng mà Việt Nam sản xuất.

Để đạt được mục tiêu này, Bộ Công Thương đã khuyến khích các công ty nước ngoài – đặc biệt là các công ty nhận trợ cấp của chính phủ – thiết lập các chương trình nghiên cứu chung với các tổ chức địa phương. Ví dụ điển hình là thỏa thuận đào tạo thiết kế chip giữa Synopsys, Khu Công nghệ cao TPHCM, Samsung và chương trình phát triển nhà cung cấp nội địa của Bộ Công Thương.

Các quỹ đầu tư mạo hiểm của nhà nước như Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia và Vườn ươm Công nghệ thông tin Việt Nam – Hàn Quốc cũng đang tiếp tục phục vụ cho nỗ lực của Việt Nam nhằm chuyển đổi sang đóng góp giá trị cao hơn cho chuỗi cung ứng chip toàn cầu.

Ngoài ra, Việt Nam cũng nhận thức được một cách chính xác rằng, ngành công nghiệp chip non trẻ của mình khó có khả năng phát triển chip tiên tiến ở quy mô thương mại như Đài Loan (Trung Quốc) hay Hàn Quốc. Do vậy, các doanh nghiệp sẽ tập trung vào những ngóc ngách hỗ trợ các dòng sản phẩm cụ thể như chip quản lý điện năng, chip analog cho Internet, Internet vạn vật và hệ thống dựa trên ứng dụng chip.

Chiến lược này được đánh giá là có nhiều nét tương đồng với một số quốc gia như Pháp, cho phép Việt Nam có thể tìm kiếm những phân khúc thị trường phù hợp để có thể cạnh tranh toàn cầu với nguồn lực và chính sách hỗ trợ công nghiệp khiêm tốn.

Duy trì mối quan hệ hài hòa trong chuỗi cung ứng bán dẫn

Báo Global Times của Trung Quốc nhận định, ngành công nghiệp bán dẫn của Việt Nam, được hỗ trợ bởi nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ các tập đoàn công nghiệp khổng lồ của phương Tây, đã có mức tăng trưởng đáng kể trong những năm gần đây, và trở thành nhà xuất khẩu chip lớn thứ ba sang Mỹ ở châu Á.

Tuy nhiên, dù phát triển ổn định trong những năm gần đây, ngành bán dẫn Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn FDI và vai trò trong chuỗi cung ứng chủ yếu mới chỉ giới hạn ở việc lắp ráp và thử nghiệm. Do vậy, Việt Nam vẫn cần hội nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng khu vực để đón nhận thêm sự hỗ trợ cho ngành bán dẫn của mình.

Cũng theo Global Times, việc Việt Nam tăng cường quan hệ với Mỹ, khuyến khích các công ty công nghệ cao phương Tây đầu tư hơn nữa là điều hiển nhiên. Nhưng song song với đó, chuỗi công nghiệp giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ không suy yếu mà còn được tăng cường hơn nữa, bởi Trung Quốc vẫn là thị trường chip lớn nhất thế giới và không có công ty nào sẵn sàng tách rời hoàn toàn khỏi thị trường này. Một sự phát triển bền vững của ngành bán dẫn Việt Nam, trong mối quan hệ hài hòa với cả phương Tây và Trung Quốc do vậy, sẽ là tài sản quý giá đối với chuỗi công nghiệp châu Á.

Quan điểm trên cũng nhận được sự đồng tình của Jayant Menon, thành viên cấp cao của Viện ISEAS-Yusof Ishak có trụ sở tại Singapore. Theo ông Menon, “Trong khi căng thẳng Mỹ – Trung đẩy nhanh tốc độ đa dạng hóa chuỗi cung ứng, các kết nối với Trung Quốc sẽ vẫn còn nguyên vẹn”. Ông đồng thời cũng cho biết thêm rằng “trong tương lai gần”, các khoản đầu tư của Mỹ vào lĩnh vực bán dẫn Việt Nam sẽ ít ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng, cũng như quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Về tổng thể, Việt Nam vẫn sẽ còn một chặng đường dài phải đi trước khi trở thành một nền kinh tế sản xuất chip tiên tiến. Tuy nhiên, tờ The Diplomat đánh giá, tính đến thời điểm hiện tại, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam vẫn đang tận dụng một cách thông minh sự độc lập về địa chính trị và nguồn vốn FDI để xây dựng nền tảng cho một cường quốc công nghệ.

Nguồn:Kinh Te Sai Gon Online| Liên kết
Tham khảo thêm các dịch vụ SIA|Liên kết

Bước Tiến của Ngành Bán dẫn vào Đông Nam Á: Các nhà sản xuất vi xử lý và chip nhớ Hàn Quốc, Synopsys, Amkor và Marvell đang đầu tư mạnh tại Việt Nam

Việt Nam sau nhiều năm nỗ lực phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và trải qua thời kỳ đình trệ, đang nỗ lực thu hút các công ty sản xuất chip toàn cầu, đẩy mạnh làn sóng đầu tư vào ngành công nghiệp chip. (Nguồn ảnh/Hana Micron official website)

Vào ngày 3 tháng 10, theo một báo cáo, nhà sản xuất chip nhớ Hàn Quốc Hana Micron sẽ đầu tư 1 tỷ USD để sản xuất chip tại Việt Nam, đáp ứng chính sách của chính phủ Việt Nam nhằm thu hút các công ty sản xuất chip. Nhà cung cấp cho Samsung này đã bắt đầu chuyển thiết bị vào một nhà máy mới.

Việt Nam sau nhiều năm nỗ lực phát triển ngành công nghiệp bán dẫn và trải qua thời kỳ đình trệ, đang nỗ lực thu hút các công ty sản xuất chip toàn cầu, đẩy mạnh làn sóng đầu tư vào ngành công nghiệp chip.

Hana Micron dự định đầu tư 1 tỷ đô la vào việc sản xuất chip tại Việt Nam

Hana Micron, một nhà sản xuất chip hàng đầu của Hàn Quốc, đã lên kế hoạch đầu tư 1 tỷ đô la vào việc sản xuất chip tại Việt Nam vào năm 2025. Điều này đánh dấu làn sóng đầu tư bán dẫn mới nhất đổ vào đất nước cộng sản này.

Công ty đã thông báo với Nikkei Asia rằng, ‘Hiện tại, chúng tôi đang chuyển thiết bị vào nhà máy thứ hai tại tỉnh Bắc Giang để chuẩn bị cho quá trình sản xuất, và lịch kiểm tra của khách hàng của chúng tôi khá bận rộn.’ Tỉnh này hiện nay đang có ba nhà cung cấp cho Apple, trong khi tỉnh láng giềng Bắc Ninh nổi tiếng sản xuất hầu hết các điện thoại di động của Samsung trên toàn cầu.

‘Hana Micron có kế hoạch xây dựng nhà máy đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Bắc Giang và phù hợp với hướng phát triển của chính phủ, sẽ tạo ra cơ hội thu hút thêm các dự án công nghệ cao và đặt nền tảng cho sự phát triển của hệ sinh thái sản xuất bán dẫn,’ ông Hwang Chul Min, Trưởng phòng Nhân sự của Hana Micron, cho biết trong cuộc phỏng vấn với Nikkei News.

Những thông báo gần đây này đang tạo đà cho cả các nhà sản xuất chip toàn cầu và Việt Nam. Các nhà sản xuất chip toàn cầu đang được thúc đẩy bởi áp lực địa chính trị để đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ, và sau nhiều năm đình trệ, Việt Nam cuối cùng đã thành công trong việc thu hút các công ty này.

Samsung Electronics: “Đã Đầu Tư Quá Nhiều Ở Việt Nam”

Tuy nhiên, những thách thức vẫn tồn tại. Samsung Electronics, một khách hàng lớn của Hana Micron, đã từ chối yêu cầu từ chính quyền Hà Nội để thành lập một nhà máy wafer bán dẫn, các nguồn tin cho biết với Nikkei News, và khẳng định rằng Samsung Electronics đã ‘đã đầu tư quá nhiều ở Việt Nam.’ Intel, công ty đầu tư chip lớn nhất tại Việt Nam, cũng đã chọn đầu tư tại Malaysia, mở rộng đáng kể khả năng đóng gói chip của họ.

Việt Nam đang nỗ lực để đáp ứng nhu cầu về kỹ năng và cơ sở hạ tầng. Theo thông báo đăng trên trang web của chính quyền tỉnh Bắc Giang vào thứ Bảy vừa qua, Hana Micron sẽ tuyển dụng 4.000 nhân viên và hợp tác với Trường Cao đẳng Công nghệ Công nghiệp Việt Nam-Hàn Quốc để tuyển dụng tài năng. Hana Micron cũng có một nhà máy tại Bắc Ninh, nơi họ đang tuyển dụng các nhân viên công nghệ thông tin, mua sắm, kế hoạch sản xuất và công nhân trên dây chuyền sản xuất.

Trang web của tỉnh Bắc Giang ghi nhận, ‘Hana Micron nhận được sự quan tâm đặc biệt từ tỉnh Bắc Giang trong việc cung cấp điều kiện sản xuất liên tục như đảm bảo nguồn cung cấp điện và nước.’ Vào đầu tháng 6, đã xảy ra tình trạng thiếu điện, dẫn đến một số giờ cắt điện ở tỉnh Bắc Giang và các tỉnh khác, gây lo ngại cho các nhà đầu tư trên toàn quốc và các ngành công nghiệp.

Trang web chính thức của tỉnh Bắc Giang cũng đề cập, ‘Nhà máy của Hana Micron có diện tích 6 hécta, trong khi một nhà máy bán dẫn được tài trợ bởi Đài Loan sẽ bắt đầu hoạt động vào năm 2024.’

Ngành công nghiệp chip đã là một trọng tâm trong chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Biden đến Việt Nam vào tháng 9, trong đó chính quyền Biden đã thông báo rằng các công ty Mỹ Amkor và Marvell sẽ mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Một vài ngày sau đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính của Việt Nam đã thăm các nhà máy của Nvidia và Synopsys tại Mỹ, tìm kiếm các khoản đầu tư tiếp theo.

Các công ty Mỹ như Synopsys, Amkor và Marvell đang tiến hành đầu tư mạnh mẽ vào ngành công nghiệp chip tại Việt Nam

Thực tế, Chính phủ Mỹ đã bao gồm Việt Nam trong phạm vi của “Đạo luật về Chip” để hỗ trợ tài chính, và Synopsys, Amkor và Marvell đã thực hiện đầu tư lớn vào ngành công nghiệp chip tại Việt Nam.

Trong số đó, công ty phần mềm chip của Mỹ, Synopsys, đã theo dõi rất sát về rủi ro từ Trung Quốc khi đầu tư vào Việt Nam. Công ty Mỹ này đã tham gia vào Trung tâm Thiết kế Chip Hà Nội được thành lập vào tháng 9, cùng với các công ty Việt Nam như FPT và Viettel.

Tuy nhiên, đến nay, quốc gia Đông Nam Á này chưa thể huy động được hàng tỷ đô la Mỹ cần thiết để xây dựng các nhà máy sản xuất chip tiên tiến.

“Việt Nam vẫn cần một kế hoạch ngành công nghiệp bán dẫn quốc gia thống nhất,” Trung tâm Sáng tạo Quốc gia của Chính phủ Việt Nam đã tuyên bố trong bài phát biểu tại cuộc họp về chip tại Hà Nội vào thứ Sáu tuần trước.

Theo một tuyên bố, ông Nguyen Huy Dung, Phó Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam, cho biết: “Việt Nam đang chuẩn bị mở rộng ngành công nghiệp bán dẫn một cách chưa từng có, với kế hoạch hấp dẫn các nhà đầu tư thông qua các chế độ thuế thuận lợi, bao gồm khả năng cấp miễn thuế trong vòng 4 năm.

Nguồn:Yahoo 新聞 | Liên kết
Tham khảo thêm các dịch vụ SIA|Liên kết

Việt Nam và xu hướng đa dạng hóa chuỗi cung ứng bán dẫn

Ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu đang đẩy mạnh các nỗ lực đa dạng hóa chuỗi cung ứng. Và Việt Nam – một điểm đến hấp dẫn với các nhà đầu tư, đang đứng trước cơ hội trở thành một trung tâm sản xuất bán dẫn quan trọng trong khu vực.

Xu hướng đa dạng hóa trong chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu

Chất bán dẫn là thành phần quan trọng trong công nghệ cung cấp năng lượng cho thế giới hiện đại của chúng ta. Hầu như mọi thiết bị điện tử mà chúng ta sử dụng để điều hành công việc kinh doanh và sắp xếp cuộc sống đều chứa chất bán dẫn. Do vậy, không quá lời khi nói rằng những con chip nhỏ bé này là một trong những tài nguyên quý giá nhất thế giới.

Các số liệu thống kê cho thấy, mặc dù hoạt động sản xuất đã chậm lại trong năm 2022, ngành công nghiệp bán dẫn vẫn đạt doanh thu toàn cầu là 580,13 tỉ đô la với mức tăng trưởng 4,4%. Các nhà phân tích dự đoán rằng trong năm 2023, tổng doanh thu bán dẫn trên thế giới sẽ giảm xuống 515,10 tỉ đô la, nhưng sẽ lại phục hồi mạnh mẽ về mức 576 tỉ đô la vào năm 2024.

Việt Nam nhận thức rằng ngành công nghiệp chip non trẻ của mình khó có khả năng phát triển chip tiên tiến ở quy mô thương mại như Đài Loan (Trung Quốc) hay Hàn Quốc. Do vậy, các doanh nghiệp sẽ tập trung vào những ngóc ngách hỗ trợ các dòng sản phẩm cụ thể như chip quản lý điện năng, chip analog cho Internet, Internet vạn vật và hệ thống dựa trên ứng dụng chip.

Tuy nhiên, bất chấp quy mô khổng lồ và tầm quan trọng địa chính trị toàn cầu của ngành công nghiệp bán dẫn, thị trường này rất dễ bị tổn thương trước sự gián đoạn chuỗi cung ứng – điều đã xảy ra một cách thường xuyên trong những năm đầu của thập niên 2020.

Đại dịch Covid-19, cuộc chiến thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc và cuộc xung đột ở Ukraine đều góp phần gây ra sự gián đoạn lớn đối với chuỗi cung ứng bán dẫn. Trong khi nhu cầu của người tiêu dùng tăng vọt, ngành công nghiệp chip lại gặp khó khăn trong việc sản xuất và vận chuyển sản phẩm của mình. Tình trạng thiếu chất bán dẫn đã lan rộng trên toàn thế giới và tác động của nó vẫn còn có thể cảm nhận cho tới thời điểm hiện tại.

Để ứng phó với nguy cơ gián đoạn chuỗi cung ứng tái diễn, các quốc gia và tập đoàn bán dẫn đang triển khai nhiều biện pháp ứng phó. Một trong những giải pháp quan trọng hơn cả chính là sự đa dạng hóa hoạt động sản xuất bán dẫn, từ đó giảm thiểu hoặc loại bỏ nhiều vấn đề trong chuỗi cung ứng.

Mỹ, Hàn Quốc, châu Âu và Trung Quốc hiện đang nhanh chóng phát triển các nhà máy chế tạo của riêng mình nhằm đảm bảo nguồn cung và giảm sự phụ thuộc vào nước ngoài. Căng thẳng giữa Mỹ và phương Tây với Trung Quốc cũng khiến các công ty bán dẫn ngày càng đẩy mạnh chiến lược “Trung Quốc cộng 1”, nhằm dịch chuyển một phần hoạt động sản xuất sang các quốc gia ngoài Trung Quốc, từ đó giảm thiểu sự phụ thuộc và rủi ro vào nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Ấn Độ, và các quốc gia Đông Nam Á, trong đó bao gồm Việt Nam, được đánh giá là những điểm đến tiềm năng mà các công ty bán dẫn đang nhắm tới.

Làn sóng đầu tư gia tăng vào Việt Nam

Theo trang The Diplomat, chuyến thăm của Tổng thống Mỹ Joe Biden tới Hà Nội hôm 10-9-2023 đã mở ra mối quan hệ sâu sắc hơn trên mọi lĩnh vực giữa Việt Nam và Mỹ. Và một trong những điểm nhấn đáng chú ý nhất, với những thành công cụ thể đáng ca ngợi chính là lĩnh vực bán dẫn.

Các giám đốc điều hành hàng đầu trong ngành công nghiệp bán dẫn Mỹ đã chứng kiến Tổng thống Joe Biden công bố các dự án AI của Nvidia và Microsoft, các trung tâm thiết kế bán dẫn mới tại TPHCM của Synopsys và Marvell, lễ khai trương cơ sở đóng gói chip Amkor trị giá 1,6 tỉ đô la Mỹ gần Hà Nội vào tháng 10, và một mối quan hệ đối tác bán dẫn Mỹ – Việt Nam, nhằm hỗ trợ cho các chuỗi cung ứng bán dẫn linh hoạt.

Tờ The Diplomat đánh giá, tính đến thời điểm hiện tại, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam vẫn đang tận dụng một cách thông minh sự độc lập về địa chính trị và nguồn vốn FDI để xây dựng nền tảng cho một cường quốc công nghệ.

Các hoạt động đầu tư trong số này là một phần của xu hướng đa dạng hóa chuỗi cung ứng mà các công ty bán dẫn hàng đầu của Mỹ đang triển khai, và được kỳ vọng sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam vươn lên trong ngành công nghiệp bán dẫn, hướng tới việc sản xuất các loại chip có giá trị cao hơn.

Trước đó, nhiều doanh nghiệp bán dẫn nước ngoài cũng đã triển khai các hoạt động đầu tư mạnh mẽ tại Việt Nam. Tập đoàn Intel của Mỹ hiện đang chuẩn bị mở rộng địa điểm lắp ráp, thử nghiệm và đóng gói chip (ATP) vốn đã có quy mô rất lớn của mình. Amkor cũng sẽ mở rộng cơ sở ATP hiện có của hãng, trong khi Synopsys đang chuyển hoạt động thiết kế EDA từ Trung Quốc sang Việt Nam.

Từ Hàn Quốc, Samsung đã đầu tư gần 1 tỉ đô la vào một cơ sở linh kiện bán dẫn hồi năm 2022 và có kế hoạch mở rộng cơ sở ở tỉnh Thái Nguyên để sản xuất chip hoàn chỉnh vào năm 2023. Ngoài ra, hàng chục nhà cung cấp tại Hà Lan cho Công ty ASML cũng đang coi Việt Nam là địa điểm phù hợp để triển khai các hoạt động sản xuất.

The Diplomat nhận xét, nhiều yếu tố đã thúc đẩy sự trỗi dậy của luồng vốn đầu tư vào ngành công nghiệp bán dẫn tại Việt Nam. Những gián đoạn sản xuất do dịch bệnh tại Trung Quốc và mối quan hệ Mỹ – Trung ngày càng căng thẳng đã khiến các công ty ngày càng theo đuổi chiến lược đa dạng hóa chuỗi cung ứng, đưa hoạt động sản xuất tới các quốc gia khác, trong đó có Việt Nam.

“Việt Nam đang trở thành quốc gia có vai trò then chốt trong sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu… Vị trí địa lý thuận lợi của Việt Nam và các khu công nghiệp đang phát triển có sức thu hút lớn với các nhà sản xuất. Quá trình chuyển đổi này nêu bật vai trò ngày càng tăng của Việt Nam trong kịch bản tái cấu trúc chuỗi cung ứng bán dẫn toàn cầu, và đánh dấu một giai đoạn mới của nền kinh tế nước này”, chuyên gia kinh tế Maheshwari Bandari tại GlobalData đánh giá.

Bên cạnh đó, các chính phủ nước ngoài cũng khuyến khích sự thay đổi này như một cách để giảm sự phụ thuộc của quốc gia vào ngành sản xuất của Trung Quốc. Đề xuất của Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ Janet Yellen về việc Việt Nam có thể được hưởng lợi từ quỹ an ninh chuỗi cung ứng quốc tế trị giá 500 triệu đô la của Đạo luật Khoa học và CHIPS là minh chứng cho điều này.

Chiến lược thu hút đầu tư hợp lý

Theo The Diplomat, để thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực bán dẫn, Chính phủ Việt Nam đã triển khai một chương trình ưu đãi được đánh giá là hấp dẫn và tương đối toàn diện.

Thứ nhất, Việt Nam đưa ra mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi 10% trong 15 năm, áp dụng cho các khoản đầu tư vào cả nghiên cứu và xây dựng cơ sở vật chất cho các lĩnh vực công nghệ cao, trong đó chất bán dẫn là ngành ưu tiên.

Thứ hai, Việt Nam cho phép các công ty và tổ chức nghiên cứu xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học được miễn thuế tài sản (tiền thuê đất) trong toàn bộ thời hạn thuê nếu cơ sở này được sử dụng để nghiên cứu, ươm mầm khởi nghiệp…

Thành phố lớn nhất Việt Nam, TPHCM, có một chương trình bổ sung trợ cấp một phần hoặc toàn bộ lãi vay cho các dự án đầu tư cụ thể. Chính quyền sẽ trợ cấp 50% lãi suất đối với các cơ sở R&D cho “các ngành công nghiệp hỗ trợ”, 70% lãi suất cho các hoạt động sản xuất cơ bản và 85% lãi suất cho việc mua công nghệ và thiết bị tiên tiến – với tổng số tiền lên tới 8,8 triệu đô la cho mỗi dự án. Chương trình này đóng vai trò hỗ trợ cho Chương trình Phát triển công nghiệp vi mạch của thành phố.

Bên cạnh đó, để khuyến khích các công ty thuê kỹ sư Việt Nam, thuế giá trị gia tăng (VAT) tiêu chuẩn 10% đối với dịch vụ được giảm xuống còn 5% đối với các hoạt động khoa học trong lĩnh vực công nghệ cao, như chất bán dẫn. Các hoạt động đủ điều kiện bao gồm từ nghiên cứu đến tư vấn chuyển giao công nghệ và đào tạo kỹ thuật.

Tuy nhiên, bên cạnh các ưu đãi, các nhà hoạch định chính sách cũng luôn cố gắng đảm bảo rằng các công ty nước ngoài sẽ hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực kỹ thuật nội địa, từ đó giành được phần lợi nhuận lớn hơn từ các sản phẩm cuối cùng mà Việt Nam sản xuất.

Để đạt được mục tiêu này, Bộ Công Thương đã khuyến khích các công ty nước ngoài – đặc biệt là các công ty nhận trợ cấp của chính phủ – thiết lập các chương trình nghiên cứu chung với các tổ chức địa phương. Ví dụ điển hình là thỏa thuận đào tạo thiết kế chip giữa Synopsys, Khu Công nghệ cao TPHCM, Samsung và chương trình phát triển nhà cung cấp nội địa của Bộ Công Thương.

Các quỹ đầu tư mạo hiểm của nhà nước như Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia và Vườn ươm Công nghệ thông tin Việt Nam – Hàn Quốc cũng đang tiếp tục phục vụ cho nỗ lực của Việt Nam nhằm chuyển đổi sang đóng góp giá trị cao hơn cho chuỗi cung ứng chip toàn cầu.

Ngoài ra, Việt Nam cũng nhận thức được một cách chính xác rằng, ngành công nghiệp chip non trẻ của mình khó có khả năng phát triển chip tiên tiến ở quy mô thương mại như Đài Loan (Trung Quốc) hay Hàn Quốc. Do vậy, các doanh nghiệp sẽ tập trung vào những ngóc ngách hỗ trợ các dòng sản phẩm cụ thể như chip quản lý điện năng, chip analog cho Internet, Internet vạn vật và hệ thống dựa trên ứng dụng chip.

Chiến lược này được đánh giá là có nhiều nét tương đồng với một số quốc gia như Pháp, cho phép Việt Nam có thể tìm kiếm những phân khúc thị trường phù hợp để có thể cạnh tranh toàn cầu với nguồn lực và chính sách hỗ trợ công nghiệp khiêm tốn.

Duy trì mối quan hệ hài hòa trong chuỗi cung ứng bán dẫn

Báo Global Times của Trung Quốc nhận định, ngành công nghiệp bán dẫn của Việt Nam, được hỗ trợ bởi nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ các tập đoàn công nghiệp khổng lồ của phương Tây, đã có mức tăng trưởng đáng kể trong những năm gần đây, và trở thành nhà xuất khẩu chip lớn thứ ba sang Mỹ ở châu Á.

Tuy nhiên, dù phát triển ổn định trong những năm gần đây, ngành bán dẫn Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn FDI và vai trò trong chuỗi cung ứng chủ yếu mới chỉ giới hạn ở việc lắp ráp và thử nghiệm. Do vậy, Việt Nam vẫn cần hội nhập sâu hơn vào chuỗi cung ứng khu vực để đón nhận thêm sự hỗ trợ cho ngành bán dẫn của mình.

Cũng theo Global Times, việc Việt Nam tăng cường quan hệ với Mỹ, khuyến khích các công ty công nghệ cao phương Tây đầu tư hơn nữa là điều hiển nhiên. Nhưng song song với đó, chuỗi công nghiệp giữa Trung Quốc và Việt Nam sẽ không suy yếu mà còn được tăng cường hơn nữa, bởi Trung Quốc vẫn là thị trường chip lớn nhất thế giới và không có công ty nào sẵn sàng tách rời hoàn toàn khỏi thị trường này. Một sự phát triển bền vững của ngành bán dẫn Việt Nam, trong mối quan hệ hài hòa với cả phương Tây và Trung Quốc do vậy, sẽ là tài sản quý giá đối với chuỗi công nghiệp châu Á.

Quan điểm trên cũng nhận được sự đồng tình của Jayant Menon, thành viên cấp cao của Viện ISEAS-Yusof Ishak có trụ sở tại Singapore. Theo ông Menon, “Trong khi căng thẳng Mỹ – Trung đẩy nhanh tốc độ đa dạng hóa chuỗi cung ứng, các kết nối với Trung Quốc sẽ vẫn còn nguyên vẹn”. Ông đồng thời cũng cho biết thêm rằng “trong tương lai gần”, các khoản đầu tư của Mỹ vào lĩnh vực bán dẫn Việt Nam sẽ ít ảnh hưởng đến chuỗi cung ứng, cũng như quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.

Về tổng thể, Việt Nam vẫn sẽ còn một chặng đường dài phải đi trước khi trở thành một nền kinh tế sản xuất chip tiên tiến. Tuy nhiên, tờ The Diplomat đánh giá, tính đến thời điểm hiện tại, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam vẫn đang tận dụng một cách thông minh sự độc lập về địa chính trị và nguồn vốn FDI để xây dựng nền tảng cho một cường quốc công nghệ.

Tham khảo đến dịch vụ “một cửa” của chúng tôi cho các doanh nghiệp Đài Loan | Link

Meet our consultants

 

Kinh doanh quốc tế: Các hình thức công ty và chiến lược đầu tư cho doanh nghiệp nước ngoài

Chọn loại hình thành lập công ty có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Luật Doanh nghiệp (LOE) đã được Quốc hội Việt Nam thông qua vào ngày 17 tháng 6 năm 2020 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2021. Luật cung cấp bốn loại hình thức pháp lý của công ty cho các đối tượng kinh doanh, bao gồm:

1. Công ty trách nhiệm hữu hạn (LLC)
2. Công ty cổ phần (JSC)
3. Công ty hợp danh
4. Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh (BCC)
5. Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh Công cộng-Tư nhân (PPP)

Một thực thể nước ngoài có thể thiết lập mặt bằng của mình tại Việt Nam dưới dạng một công ty trách nhiệm hữu hạn với một hoặc nhiều thành viên, một công ty cổ phần, một công ty hợp danh, một chi nhánh, một hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc một văn phòng đại diện. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng được phép mua một phần lợi ích trong các doanh nghiệp trong nước hiện có, tuân theo các hạn chế về sở hữu; điều này thay đổi tùy theo ngành công nghiệp tương ứng. Đặc điểm chính và cấu trúc quản lý của các đối tượng kinh doanh phổ biến được tóm tắt như sau:

Công ty trách nhiệm hữu hạn

Công ty trách nhiệm hữu hạn (LLC) là một thực thể pháp lý được thành lập thông qua việc đóng góp vốn được xem xét như vốn (hoặc vốn điều lệ) từ các thành viên của nó. Một LLC không được phép phát hành cổ phiếu. Tổng số thành viên trong một LLC bị giới hạn ở mức 50 (áp dụng cho hình thức của một LLC có hơn hai thành viên). Các thành viên của một LLC chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính của LLC trong phạm vi vốn đóng góp – hoặc cam kết đóng góp – cho công ty.

Một LLC có thể được thành lập bởi các nhà đầu tư nước ngoài dưới một trong hai hình thức sau đây:

i) Một doanh nghiệp 100% do người nước ngoài sở hữu (khi tất cả thành viên đều là nhà đầu tư nước ngoài); hoặc:

ii) Một doanh nghiệp liên doanh với ít nhất một nhà đầu tư Việt Nam.

Công ty cổ phần

Công ty cổ phần (JSC) là một thực thể pháp lý được thành lập bởi các cổ đông sáng lập dựa trên việc đăng ký mua cổ phiếu của Công ty cổ phần. Vốn điều lệ của một Công ty cổ phần được chia thành các cổ phiếu và mỗi cổ đông sáng lập nắm giữ một số cổ phiếu tương ứng với số lượng cổ phiếu đã đăng ký và thanh toán của họ trong Công ty cổ phần.

Một Công ty cổ phần được yêu cầu phải có ít nhất ba cổ đông (không giới hạn số cổ đông tối đa). Một Công ty cổ phần có thể có dạng (i) doanh nghiệp 100% do người nước ngoài sở hữu hoặc (ii) một liên doanh giữa các nhà đầu tư nước ngoài và nội địa.

Hợp tác

Một doanh nghiệp hợp tác có thể được thành lập giữa hai đối tác quản lý cá nhân. Các đối tác quản lý có trách nhiệm không giới hạn đối với tất cả các nghĩa vụ của doanh nghiệp hợp tác. Ngoài các đối tác quản lý, một doanh nghiệp hợp tác có thể có các đối tác đóng góp chỉ chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp hợp tác đến giá trị vốn góp của họ.

Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh

Hợp đồng Hợp tác Kinh doanh (BCC) thường không được ký kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài và các nhà đầu tư Việt Nam để thực hiện các hoạt động kinh doanh cụ thể.

BCC được thực hiện mà không cần tạo ra một đơn vị pháp lý mới. Thay vào đó, các bên tham gia BCC sẽ thành lập một Ban điều phối để thực hiện và giám sát BCC. Các nhà đầu tư tham gia BCC đồng ý về việc phân chia trách nhiệm và chia sẻ lợi nhuận/lỗ hại phát sinh từ BCC. Các bên tham gia BCC chịu trách nhiệm không giới hạn về các nghĩa vụ tài chính của BCC.

Đối tác Công cộng – Tư nhân

Hợp đồng Đối tác Công cộng – Tư nhân (PPP) là một hình thức đầu tư được thiết lập dựa trên một hợp đồng giữa các cơ quan chính phủ có liên quan và các công ty dự án để thực hiện một số công trình hạ tầng được quy định và dịch vụ công cộng, chẳng hạn như hệ thống giao thông, hệ thống cung cấp nước, nhà máy điện, cơ sở hạ tầng giáo dục và chăm sóc sức khỏe, vv.

Các hợp đồng PPP bao gồm các loại hợp đồng Build-Operate-Transfer (BOT), Build-Transfer (BT), Build-Transfer-Operate (BTO), Build-Own-Operate (BOO), Build-Transfer-Lease (BTL), Build-Lease-Transfer (BLT) và Operate-Manage (O&M).

Sau khi ký hợp đồng PPP với một cơ quan nhà nước có thẩm quyền, các nhà đầu tư nước ngoài phải thành lập một công ty dự án dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Hợp đồng PPP sẽ rõ ràng quy định về quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư nước ngoài đối với các hợp đồng như vậy.

Sáp nhập và Mua lại (Mergers and Acquisitions – M&A)

Khung pháp lý cho hoạt động M&A được quy định trong Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư cùng với các văn bản hướng dẫn đi kèm, bao gồm các điều kiện, thủ tục và hậu quả thuế của các hoạt động này.

Luật Cạnh tranh cũng ảnh hưởng đến các hoạt động M&A. Khi một sáp nhập hoặc mua lại có thể dẫn đến việc hình thành một tổ chức pháp lý có thị phần chiếm từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan, người đại diện pháp lý của tổ chức đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi sáp nhập/mua lại được thực hiện, trừ khi Luật có quy định khác. Một sáp nhập hoặc mua lại dẫn đến việc hình thành một tổ chức mới có thị phần chiếm hơn 50% trên thị trường liên quan sẽ bị cấm, trừ khi có quy định khác trong Luật Cạnh tranh.

Các Hình Thức Đầu Tư Khác

Tất cả các hoạt động đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phải được thực hiện bằng đồng Việt Nam thông qua tài khoản vốn đầu tư gián tiếp mở tại một ngân hàng được phép. Số dư trong tài khoản vốn đầu tư gián tiếp của các nhà đầu tư nước ngoài không thể được chuyển đổi thành tiền gửi có kỳ hạn hoặc tiền gửi tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Dưới đây là một số ví dụ về các hoạt động đầu tư gián tiếp thường được thực hiện tại Việt Nam:

  • Đóng góp vốn, mua/bán cổ phần hoặc vốn đóng góp vào các doanh nghiệp Việt Nam mà không tham gia trực tiếp vào quản lý và điều hành của doanh nghiệp.
  • Đóng góp vốn, chuyển nhượng vốn đóng góp vào các quỹ đầu tư chứng khoán và các công ty quản lý quỹ theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
  • Mua/bán các giấy tờ giá trị khác được phép trong đồng Việt Nam và phát hành trên lãnh thổ Việt Nam bởi các tổ chức cư trú.
  • Mua/bán trái phiếu và các loại cổ phiếu khác trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

 

Meet our consultants