Việt Nam có tiềm năng và triển vọng đầu tư năng lượng tái tạo thế nào?

Theo giới chuyên gia, Việt Nam đang trở thành một trong những thị trường năng lượng tái tạo phát triển nhanh chóng và thu hút đầu tư lớn từ cả trong và ngoài nước.

Ảnh minh họa

Tiềm năng của lĩnh vực năng lượng tái tạo

Việt Nam có một tiềm năng lớn để phát triển năng lượng tái tạo do vị trí địa lý thuận lợi và điều kiện tự nhiên. Với đường bờ biển dài hơn 3.200 km, Việt Nam có tiềm năng phát triển điện gió và điện mặt trời lớn. Ngoài ra, nước ta cũng có tiềm năng phát triển các nguồn năng lượng khác như thủy điện, sinh khối và năng lượng biogas từ chất thải.

Đáng chú ý, là quốc gia nằm trong vùng nhiệt đới và có lượng ánh sáng mặt trời phong phú quanh năm. Điều này tạo ra một tiềm năng lớn để phát triển năng lượng mặt trời, đặc biệt là trong việc lắp đặt các hệ thống điện mặt trời. Ngoài ra, Việt Nam có nhiều sông lớn và dòng chảy nước mạnh, cung cấp tiềm năng lớn cho năng lượng thủy điện. Hiện nay, đã có nhiều nhà máy thủy điện hoạt động và còn nhiều dự án khác đang được đề xuất.

Bên cạnh đó, Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp, có nguồn tài nguyên sinh học dồi dào từ các loại cây trồng, rừng và chất thải hữu cơ. Các nguồn tài nguyên này có thể được sử dụng để sản xuất năng lượng sinh học, như nhiên liệu sinh học và khí sinh học.

Theo các chuyên gia, hiện tại chúng ta đang có mức tăng trưởng kinh tế rất nhanh và nhu cầu về năng lượng ngày càng tăng. Phát triển năng lượng tái tạo giúp đáp ứng nhu cầu năng lượng mà không gây tác động tiêu cực đến môi trường.

Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế, Việt Nam là quốc gia sử dụng điện nhiều thứ hai trong khu vực Đông Nam Á. Điều này mở ra cơ hội lớn cho các tập đoàn nước ngoài đầu tư vào ngành năng lượng tại Việt Nam nói chung hay năng lượng tái tạo nói riêng.

Chính phủ Việt Nam đã đưa ra các chính sách và quy định khuyến khích đầu tư vào năng lượng tái tạo, bao gồm các chế độ khuyến mãi và giảm thuế. Điều này đã tạo ra một môi trường kinh doanh thuận lợi và hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực này.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc đầu tư và phát triển năng lượng tái tạo cần có sự đầu tư vốn lớn và công nghệ hiện đại. Hơn nữa, việc giải quyết các thách thức về hạ tầng, lưu trữ năng lượng và kết nối lưới cũng là những yếu tố quan trọng cần được xem xét.

Có thể khẳng định, Việt Nam có tiềm năng lớn để phát triển năng lượng tái tạo và chính phủ đang tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, việc đầu tư và phát triển cần được thực hiện một cách cẩn thận và bền vững để đảm bảo hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi trường.

Ông Phạm Bình An - Phó Viện trưởng phụ trách Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM

Ông Phạm Bình An – Phó Viện trưởng phụ trách Viện Nghiên cứu phát triển TP.HCM.

Ông Phạm Bình An – Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu phát triển TP.HCM cho biết, năng lượng tái tạo đang trở thành một phần quan trọng của chiến lược phát triển năng lượng và bảo vệ môi trường. Chính quyền TP.HCM đã đưa ra nhiều chính sách khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo, đáng chú ý là TP đang triển khai Đề án Đô thị thông minh trong đó năng lượng tái tạo và tiết kiệm năng lượng là một phần quan trọng. TP đã triển khai nhiều dự án liên quan đến năng lượng tái tạo như hệ thống đèn đường LED tiết kiệm năng lượng, điện mặt trời trên các tòa nhà công cộng và các công trình tiết kiệm năng lượng.

“Bên cạnh các tiềm năng tự nhiên nhằm phát triển năng lượng tái tạo và tiềm lực xã hội trên địa bàn TP, Nghị quyết số 98/2023/QH15 được Quốc hội thông qua với nhiều cơ chế đặc thù được kỳ vọng mang lại nhiều cơ hội, thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng – tăng dần việc cung cấp năng lượng xanh và tiến đến thay thế các nguồn năng lượng dựa vào hóa thạch dựa trên điều kiện và tiềm năng của TP. HCM”, ông An nói.

Ông An cho biết thêm, Việt Nam đã tham gia và ký kết nhiều Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) với nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới, và trong một số các FTA này, có những quy định và cam kết liên quan đến năng lượng tái tạo như Quy định về giảm thuế nhập khẩu cho sản phẩm và thiết bị năng lượng tái tạo trong Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Quy định về các rào cản phi thuế quan đối với thương mại và đầu tư trong sản xuất năng lượng tái tạo trong Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu-Việt Nam (EVFTA). Chính vì thế, phát triển NLTT, năng lượng sạch ở Việt Nam là vấn đề cần lưu tâm, mang tính quyết định cho tương lai phát triển cho nhiều ngành kinh tế.

Chính sách hỗ trợ và khung pháp lý

Chính phủ Việt Nam đã thúc đẩy đầu tư vào năng lượng tái tạo thông qua việc áp dụng các chính sách khuyến khích và cung cấp các ưu đãi thuế và tài chính cho các dự án năng lượng tái tạo.

Bên cạnh đó, việc ban hành các quy định pháp lý như Luật Đầu tư và Luật Năng lượng tái tạo cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực này. Từ đó, nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đã thể hiện sự quan tâm và sẵn lòng đầu tư vào năng lượng tái tạo tại Việt Nam.

Với sự phát triển ngày càng nhanh chóng của năng lượng tái tạo, ông Nguyễn Anh Sơn – Vụ trưởng Vụ pháp chế, Bộ Công Thương nhấn mạnh, khung pháp lý điều chỉnh các dự án này cũng cần thiết phải hoàn thiện đầy đủ và nhanh chóng hơn để thuận lợi hóa cho quá trình triển khai của doanh nghiệp, hạn chế rủi ro, thiệt hại phát sinh.

Trong khi đó, ông Nguyễn Hồng Hải – Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam cho rằng, năng lượng có vai trò rất quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, các nỗ lực phát triển bền vững tổng thể của quốc gia không thể tách rời sự phát triển bền vững của ngành năng lượng.

“Tuy vậy, thực tế cho thấy, việc phát triển năng lượng tái tạo đang gặp nhiều vướng mắc do khung pháp lý còn nhiều hạn chế, tồn tại nhiều thiếu sót. Các khó khăn này liên quan đến việc thiếu các quy chuẩn, tiêu chuẩn áp dụng cho các công nghệ năng lượng tái tạo, việc sử dụng đất triển khai các dự án năng lượng còn nhiều đặc thù, chưa kể còn nhiều vướng mắc khác về mặt kỹ thuật, thu xếp tài chính”, ông Hải chia sẻ.

Phó Chủ tịch Hiệp hội Năng lượng Việt Nam đề xuất, các cơ quan nhà nước cần đưa ra các định hướng, chính sách thông thoáng hơn, đầu đủ hơn để tạo môi trường đầu tư ổn định đối với nguồn năng lượng tái tạo. Không chỉ vậy cần có giải pháp và cơ chế phù hợp hơn trong việc phát triển các dự án năng lượng tái tạo và hạn chế ảnh hưởng của các dự án năng lượng tái tạo biến đổi (điện gió, điện mặt trời).

Ảnh minh họa

Triển vọng đầu tư năng lượng tái tạo

Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ về việc tăng cường sử dụng năng lượng tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính. Kế hoạch phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đặt mục tiêu đạt 15-20% tổng sản lượng điện từ nguồn năng lượng tái tạo vào năm 2030 và 25-30% vào năm 2045. Điều này tạo ra một cơ hội lớn cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.

Ngoài ra, Việt Nam cũng đã thu hút sự quan tâm của các công ty năng lượng quốc tế hàng đầu. Các hãng điện lực và công ty công nghệ lớn như Siemens, General Electric và Trina Solar đã có mặt và đầu tư vào các dự án năng lượng tái tạo tại Việt Nam.

Tuy nhiên, còn một số thách thức đối với việc phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam, bao gồm kỹ thuật, hạ tầng và vấn đề tài chính. Để thúc đẩy tiến trình này, cần có sự tham gia chặt chẽ giữa chính phủ, các tổ chức quốc tế và các nhà đầu tư để xây dựng môi trường đầu tư năng lượng tái tạo ổn định và hấp dẫn.

Như vậy, về tình hình đầu tư năng lượng tái tạo ở Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và hứa hẹn mang lại nhiều triển vọng. Với tiềm năng tự nhiên và chính sách hỗ trợ từ chính phủ, Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm và đầu tư từ các công ty năng lượng hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác và đầu tư để vượt qua các thách thức còn lại và tạo ra một tương lai năng lượng sạch và bền vững cho Việt Nam.

Việc đầu tư vào năng lượng tái tạo không chỉ giúp giải quyết vấn đề an ninh năng lượng và ô nhiễm môi trường, mà còn tạo ra cơ hội kinh tế và tạo việc làm cho người dân. Việc phát triển năng lượng tái tạo sẽ đóng góp tích cực vào việc xây dựng một xã hội xanh, bền vững và thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong tương lai.

Nguồn:Tap Chi Dien Tu Doanh Nghiep | Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA|Liên kết

 

Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng mà nhiều nước chỉ có thể mơ ước

Suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động đến nhu cầu xuất khẩu của Việt Nam, khiến 2023 trở thành một trong những năm thách thức nhất của thế kỷ 21, sau hai năm COVID-19 2020 và 2021. Tuy vậy, GDP năm 2023 vẫn tăng 5,05%, thuộc top cao trong khu vực và thế giới.

Việt Nam kiên cường

Ông Andrea Coppola chọn từ “kiên cường” để nói về Việt Nam năm 2023. “Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam, suy thoái kinh tế toàn cầu là một cú sốc tiêu cực lớn đối với đất nước nhưng Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng mà nhiều nước trên thế giới chỉ có thể mơ ước“, ông nhấn mạnh.

Chuyên gia World Bank phân tích: Việt Nam là một trong những nền kinh tế mở nhất trên thế giới. Sự phụ thuộc vào nhu cầu từ các đối tác thương mại đã đưa Việt Nam vào thế phải đối mặt với tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2023. Vì thế, sau những năm COVID 2020 và 2021 rất khó khăn, tình hình kinh tế năm 2023 là kém mạnh mẽ nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cuối những năm 1990.

Tuy nhiên, kinh tế của Việt Nam trong năm 2023 là tích cực trong bối cảnh toàn cầu đầy thách thức. Tăng trưởng kinh tế ở Mỹ là khoảng 2,5% vào năm 2023. Tại khu vực đồng Euro, tăng trưởng kinh tế thậm chí còn yếu hơn, chỉ ở mức khoảng 0,5%. Trong khi đó, bất chấp những thách thức toàn cầu, Việt Nam vẫn có thể tiếp tục tăng trưởng với tốc độ tương đối nhanh. Đầu tư công đã tăng khoảng 35% so với năm trước, giúp duy trì tăng trưởng kinh tế.

Ông Andrea Coppola, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Việt Nam

Ông Andrea Coppola, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Việt Nam

Ông Andrea Coppola ấn tượng với giai đoạn cuối năm 2023, khi kinh tế Việt Nam có dấu hiệu hồi phục. Ông nhận định, sự phục hồi này được thúc đẩy bởi ba yếu tố chính.

Thứ nhất, nhu cầu bên ngoài đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam dần phục hồi. Hoạt động xuất nhập khẩu được cải thiện trong nửa cuối năm. Thứ hai, các cơ quan chức năng đã cho thấy rõ vai trò quan trọng của việc thúc đẩy giải ngân đầu tư công, với con số tăng đáng kể so với năm 2022.

Đầu tư công là yếu tố then chốt vì chúng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn và vì vậy cải thiện hơn nữa quản lý đầu tư công là ưu tiên hiện nay của Việt Nam“, ông nói.

Thứ ba, bất chấp cú sốc mạnh giáng xuống nền kinh tế, tiêu dùng tư nhân vẫn phục hồi tốt. Sự tăng trưởng của doanh số bán lẻ, một chỉ số nói lên tiêu dùng cá nhân, ổn định ở mức khoảng 7,5% kể từ tháng 8. Tốc độ tăng trưởng này tuy chậm hơn đáng kể so với trước đại dịch COVID, nhưng tiêu dùng tư nhân vẫn là một động lực chính cho tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng năm 2024 là đầy tham vọng

Theo chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, do tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ tiếp tục chậm lại vào năm 2024 nên mục tiêu tăng trưởng GDP từ 6% – 6,5% cho năm 2024 là đầy tham vọng.

Bất chấp suy thoái toàn cầu, nhu cầu xuất khẩu của Việt Nam có thể dần được cải thiện và chúng tôi dự đoán tăng trưởng kinh tế sẽ tăng nhẹ nhưng sẽ rất khó đạt được mức 6 hoặc 6,5% trừ khi nhu cầu, tiêu dùng và đầu tư trong nước tăng tốc mạnh hơn nữa“, ông dự báo.

Tuy nhiên, ông cho rằng, các nhà chức trách có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nền kinh tế thông qua chính sách tài khóa, bằng cách đẩy nhanh việc thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng và dự án đầu tư công mang tính chuyển đổi trạng thái, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn.

Mục tiêu tăng trưởng GDP từ 6% - 6,5% cho năm 2024 là thách thức với kinh tế Việt Nam. (Ảnh minh họa: Sức khỏe Đời sống)

Mục tiêu tăng trưởng GDP từ 6% – 6,5% cho năm 2024 là thách thức với kinh tế Việt Nam.

Để tăng trưởng vững mạnh trong năm 2024, chuyên gia World Bank đề xuất tăng gấp đôi nỗ lực phát triển nguồn nhân lực bằng cách nâng cao trình độ của lực lượng lao động, và phát triển vốn vật chất thông qua đầu tư công vào cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng để có thể tăng cường hơn nữa khả năng cạnh tranh của khu vực tư nhân Việt Nam.

Người dân Việt Nam là nguồn nội lực lớn nhất của đất nước. Công nhân và doanh nhân Việt Nam đã giúp nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng gấp 7 lần trong 30 năm qua. Để duy trì mức tăng trưởng nhanh chóng này, với môi trường bên ngoài đầy thách thức, theo tôi cần tiếp tục thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân và nâng cao năng suất“, ông Andrea Coppola nói.

Chuyên gia dự báo nhu cầu xuất khẩu đối với hàng Việt Nam từ phần còn lại của thế giới sẽ phục hồi vào năm 2024 nhưng có thể sẽ không mạnh như trước và tình hình đầy thách thức này có thể kéo dài trong một thời gian tới.

Trong bối cảnh đó, thông điệp của tôi dành cho Việt Nam là tận dụng sức mạnh nội tại và thúc đẩy tăng năng suất của nền kinh tế trong nước để biến những thách thức do suy thoái kinh tế toàn cầu gây ra thành cơ hội củng cố hơn nữa mô hình tăng trưởng kinh tế của mình.

Việt Nam được đánh giá là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế nhờ sự ổn định về kinh tế, chính trị và khả năng hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Điều quan trọng đối với Việt Nam là tiếp tục củng cố môi trường kinh doanh và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư tư nhân để tận dụng tối đa tác động của diễn biến địa chính trị toàn cầu đối với đầu tư và thương mại quốc tế“, ông nêu quan điểm.

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2023 ước tính tăng 5,05% so với năm trước. GDP quý IV ước tăng 6,72% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn quý IV các năm 2012-2013 và 2020-2022. Xu hướng tích cực được duy trì, quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 3,41%, quý II tăng 4,25%, quý III tăng 5,47%).

Nguồn:VTC NEWS | Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA|Liên kết

Các trường đại học ở Việt Nam đầu tiên cung cấp chuyên ngành về IC, thiết kế bán dẫn

Nhiều trường đại học ở Việt Nam đã công bố kế hoạch tuyển sinh và đào tạo sinh viên trong lĩnh vực vi mạch tích hợp (IC) và thiết kế bán dẫn trong năm tới.

Trình độ kỹ sư vi mạch Việt Nam ở đâu trên bản đồ thế giới? - 19.11.2023, Sputnik Việt Nam

Cụ thể, Trường đại học Bách khoa, Trường đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt – Hàn và Trường đại học Sư phạm Kỹ thuật (thuộc Đại học Đà Nẵng) sẽ tuyển sinh gần 200 chỉ tiêu cho chuyên ngành đào tạo thiết kế vi mạch trong năm 2024.

PGS.TS Nguyễn Hồng Hải – phó hiệu trưởng Trường đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng) – cho biết từ năm 2024, trường sẽ mở thêm chuyên ngành vi điện tử để cung cấp nguồn nhân lực chuyên sâu về lĩnh vực vi mạch bán dẫn. Năm nay trường sẽ tuyển sinh hơn 3.500 chỉ tiêu, riêng chuyên ngành vi điện tử dự kiến tuyển khoảng 100 chỉ tiêu. Ngành này chủ yếu ưu tiên xét kết quả thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh riêng.

Tại Trường đại học Sư phạm Kỹ thuật (Đại học Đà Nẵng), PGS.TS Phan Cao Thọ – hiệu trưởng – cho hay nhà trường đang triển khai xây dựng đề án tuyển sinh cho chuyên ngành thiết kế vi mạch bán dẫn, khóa tuyển sinh đầu tiên sẽ được thực hiện trong năm 2024 với khoảng 50 sinh viên.

Đại diện Trường đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt – Hàn (Đại học Đà Nẵng) cũng thông tin trường sẽ tuyển sinh 1.500 chỉ tiêu trong năm nay. Trong đó, chuyên ngành thiết kế vi mạch bán dẫn được mở mới sẽ tuyển sinh 40 chỉ tiêu.

Việt Nam đã trở thành điểm sáng trong việc thu hút FDI, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất chíp bán dẫn. Gần đây, Hiệp hội Công nghiệp bán dẫn Hoa Kỳ cùng nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ đã đến Việt Nam để khám phá môi trường đầu tư và thực hiện khảo sát về nhiều địa điểm phù hợp cho việc sản xuất chip bán dẫn.

Theo các chuyên gia, với sự hợp tác của các doanh nghiệp công nghệ Hoa Kỳ, Việt Nam sẽ có khả năng sản xuất chíp bán dẫn quy mô lớn vào năm 2024.

Nguồn: VIETNAMNET GLOBAL | Liên kết 

Tham khảo dịch vụ SIA tại đây

Thu nhập của người lao động Việt Nam đạt 7 triệu đồng hàng tháng, tăng gần 7%

Nền kinh tế Việt Nam năm 2023 với tỷ suất tăng trưởng vừa đạt 5%, vừa mới đủ đạt mức tối thiểu theo thống kê chính thức. Mức thu nhập trung bình hàng tháng của người lao động đạt khoảng 7 triệu VND (tương đương 8,860 Đài tệ), tăng thêm 459,000 VND so với năm 2022, tăng trưởng 6.9%.

Tăng mức lương cơ sở lên 1,8 triệu đồng/tháng từ ngày 01/7/2023

Trang tin tức trực tuyến VnExpress đưa tin rằng đến cuối năm 2023, thu nhập trung bình hàng tháng của người lao động Việt Nam là khoảng 7 triệu VND. Cơ quan thống kê Việt Nam (GSO) cho biết, thu nhập trung bình hàng tháng của người lao động nam là 8.1 triệu VND, trong khi người lao động nữ là 6 triệu VND.

Tuy nền kinh tế Việt Nam năm 2023 vẫn giữ được tỷ suất tăng trưởng ổn định ở mức tối thiểu là 5%, nhưng đã không đạt được mục tiêu tăng trưởng là 6.5% mà chính phủ đề ra, và chỉ có sự hồi phục đôi chút trong quý 4 của năm đó. Phản ánh về mặt thu nhập của người lao động, tổng thể nói chung, trong quý 4 năm 2023, thu nhập trung bình của công nhân ở mỗi khu vực kinh tế đều có sự tăng lên.

Bản tin nêu rõ rằng trong quý 4 năm 2023, thu nhập trung bình hàng tháng của người lao động tại Việt Nam đạt 7.3 triệu VND, tăng thêm 180,000 VND so với quý trước, tăng trưởng 2.5%, gần gấp đôi so với mức tăng 1.4% trong quý 4 năm 2022. Phân tích cho biết rằng doanh nghiệp đã tăng tốc sản xuất trong những tháng cuối cùng của năm 2023, làm cho thu nhập của người lao động tăng lên.

Mức tăng trưởng thu nhập của người lao động nhanh nhất ở Thủ đô Hà Nội, với mức lương trung bình hàng tháng là 8.7 triệu VND, tăng thêm 3.5%.

Trái lại, thu nhập của người lao động ở miền Đông Nam Bộ tăng trưởng chậm nhất, với tỷ lệ tăng 2.3% so với năm trước, mức thu nhập trung bình hàng tháng là 9 triệu VND. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế, thu nhập lao động chỉ tăng 1.9%, đạt mức trung bình 9.4 triệu VND.

Tuy nhiên, với việc nhiều doanh nghiệp nhận đơn đặt hàng, mở rộng sản xuất, cần tuyển dụng hàng nghìn lao động, tỷ lệ thất nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh đã giảm xuống 2.91% trong năm 2023.

Toàn quốc Việt Nam năm 2023 có khoảng 51.3 triệu người lao động, tăng thêm 683,000 người so với năm 2022.

Nguồn: Yahoo 新聞 | Liên kết 

Tham khảo dịch vụ của SIA | Liên kết

Thị trường bán dẫn toàn cầu dự kiến tăng trưởng mạnh trong năm 2024

Theo dự báo, sản phẩm chip nhớ sẽ dẫn đầu mức tăng trưởng chung của thị trường trong năm 2024, với doanh số dự kiến tăng 44,8% so với năm 2023.

Chip do công ty SK hynix nghiên cứu sản xuất được giới thiệu tại Santa Clara, California (Mỹ), ngày 8/8/2023. (Ảnh: Yonhap/TTXVN)

Chip do công ty SK hynix nghiên cứu sản xuất được giới thiệu tại Santa Clara, California (Mỹ), ngày 8/8/2023.

Thị trường bán dẫn toàn cầu dự kiến tăng trưởng 13,1% trong năm 2024, đạt trị giá kỷ lục 588,36 tỷ USD, sau sự suy giảm trong năm 2023, nhờ nhu cầu ngày càng tăng đối với sản phẩm chip sử dụng trong Trí tuệ Nhân tạo (AI).

Tổ chức Thống kê Thương mại Sản phẩm Bán dẫn trên Thế giới – một tổ chức do các nhà sản xuất chip lớn thành lập – đưa ra dự báo trên. Tổ chức này đã điều chỉnh nâng mức dự báo so với mức dự báo tăng trưởng 11,8% đưa ra hồi tháng Sáu vừa qua.

Nếu đạt được mức tăng trưởng nói trên, quy mô thị trường bán dẫn tính theo đơn hàng sẽ vượt mức kỷ lục 574,08 tỷ USD ghi nhận năm 2022. Thị trường này trong năm 2023 dự kiến giảm 9,4%, xuống còn 520,3 tỷ USD do nhu cầu về chip nhớ suy giảm.

Dự báo cho thấy triển vọng lạc quan trên thị trường bán dẫn khi ngành này ghi nhận dấu hiệu phục hồi do nhu cầu ứng dụng AI tạo sinh sau khi OpenAI cho ra mắt công cụ chatbot ChatGPT và sự cải thiện về doanh số bán máy tính cá nhân và điện thoại thông minh.

Xét sản phẩm, chip nhớ sẽ dẫn đầu mức tăng trưởng chung của thị trường trong năm 2024, với doanh số dự kiến tăng 44,8% so với năm 2023.

Thị trường chip logic cũng được dự báo ghi nhận mức tăng trưởng 9,6%, trong khi thị trường chip cảm biến hình ảnh dự kiến sẽ tăng 1,7%.

Xét theo khu vực, châu Mỹ dự kiến tăng trưởng mạnh nhất với mức 22,3% trong năm tới. Thị trường châu Á-Thái Bình Dương, nơi có nhiều công ty đặt cơ sở sản xuất điện thoại thông minh và máy tính cá nhân, sẽ tăng trưởng 12%.

Tại Nhật Bản, thị trường bán dẫn được dự báo tăng trưởng ở mức khiêm tốn 4,4% do không được hưởng lợi nhiều từ sự hồi phục mạnh mẽ nhu cầu chip nhớ khi doanh số bán sản phẩm này ở mức thấp./.

Nguồn:Vietnam + | Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA | Liên kết

越南2024年經濟前景

3 kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2024

2023年:亮點

許多預測顯示,越南2023年的GDP成長僅達5%以上。 越南中央經濟管理研究院(CIEM)(越南計劃投資部)預測越南2023年的GDP約為5.19%。 最近,亞洲開發銀行(ADB)提出了5.2%的水平,與先前的5.8%的預測相比顯著下降。 值得注意的是,越南的這個5.2%的預測相當於中國今年成長的預測 – 世界第二大經濟體。

2023年被認為是一個極其困難的年份,但經濟的許多「亮點」也被記錄下來。 根據CIEM的評估,一些宏觀經濟指標正朝著正面的方向發展,GDP成長趨勢良好,第四季2023年的GDP成長估計達到7.72%,第三季為5.23%,第二季為4.05%,第 一季為3.28%。

根據BIDV經濟專家、國家財政貨幣政策諮詢委員會成員根文力博士表示,越南無法避免全球經濟困境的影響,但目前經濟復甦的訊號相當明顯。 在整個2023年和2024年,越南經濟有許多成長動力,例如:全球供應鏈和投資流動的轉移;中國市場重新開放;服務和消費相當增長;基礎設施投資得到推動,財政風險在中等水平,政策空間 仍然存在;通貨膨脹和利率正在下降,基本匯率穩定,不良債務風險在控制範圍內…

根文力博士分享,越南2023年的GDP成長雖然低於6-6.5%的目標,但仍處於亞太地區成長幾乎最高的水平,尤其是自6月以來,經濟已經顯示出明顯的復甦跡象。 透過分析經濟的具體指標,如出口,工業生產指數等,根文力博士認為經濟正在好轉。 「顯然,我們已經復甦,並且正在積極增長。」- 他堅定地說。

特別是,在經濟的三大主要投資流中,雖然私人投資尚未如預期那樣,但公共投資正順利進行,外國投資額也在增長。 同時,企業債券市場和房地產市場雖然尚未達到預期,但正在積極變化。

此外,一個重要的「亮點」是體制正在發生積極變化,許多重要法律已經被國會通過並準備通過,如土地法,住房法,房地產業務法,電子交易法,信貸機構法等等…

除此之外,政府在過去一段時間內發布的所有政策(放寬、延期、減稅、減費等)旨在支持各市場,如資本市場,土地,房地產,旅遊等,可以說是前所未有的。 值得注意的是,大多數從COVID-19時期開始實施的政策至今仍保持不變。

特別是,根文力博士強調,過去一年的外交工作總體上取得了巨大成功,尤其是經濟外交。

2024年的經濟情境如何?

在最近由聯合國開發計畫署(UNDP)和CIEM協調組織的越南經濟論壇2023中,CIEM宣布更新了越南2024年的三種經濟成長情境。 其中,低成長情境下,GDP成長為5.5%,基本情境下GDP成長為6%,高成長情境下GDP成長為6.5%。

此預測相對接近一些國際金融機構的最新預測,例如世界銀行預測為5.5%(2023年8月);國際貨幣基金組織預測為5.8%(2023年10月);亞洲開發銀行預測為6%(2023 年9月和12月)。

最近,在第六次會議上,國會通過了關於2024年經濟與社會發展計畫的第103/2023/QH15決議,2024年GDP成長目標為6-6.5%。

2024年被認為對越南經濟來說仍然是不容易的一年,因為2023年國內經濟的困境仍然會延續到2024年。 同時,全球政治情勢仍複雜且難以預測,全球經濟成長預測仍呈現輕微下降趨勢,其中包括越南的一些重要貿易夥伴。 同時,通貨膨脹預計仍然高企,甚至可能高於2023年,因此越南的貨幣政策將面臨困難,需要更大的靈活性…

然而,積極的一點是,經濟長期穩定成長為更順利的復甦提供了動力和支持。 越南的政治和商業地位越來越受到國際重視(與美國、日本關係的升級;一些新的自由貿易協定開始生效…)。 國家強調支持經濟復甦,一些支持政策已延長國會至2024年。

在經濟預測的各種情境中,CIEM預測,2024年GDP可能相對於基準情境成長(6%)。 為了實現這一成長,CIEM的研究團隊提出了一些集中註意力的解決方案,包括:集中穩定宏觀經濟,控制通貨膨脹,特別是更多關注經濟成長的動力;繼續改善製度和商業環境;完善 為生產服務的基礎設施;加強對生產經營主體的支持,並推動商品和服務市場的發展…

什麼是成長動力?

根據越南聯合國開發計畫常駐代表Ramla Khalidi的說法,為了讓越南經濟在2024年能夠強勁復甦,越南需要採取靈活的解決方案來應對當前的困難和挑戰。

「實際上,創新、創造、能源轉型等過程正在為越南提供進入新市場、增加價值和商品量、推動出口的新機會…此外,越南還可以加強吸引投資,利用先進技術如半導體技術、 人工智慧等,以有效利用這些機會實現更高水平的發展,擺脫中等收入陷阱。」- 聯合國開發計劃專家建議。

阮春成經濟學家 – 越南富布賴特大學講師認為,越南經濟在2023年年底和2024年成長的第一動力是出口。 同樣,他表示,透過向美國市場出口的復甦,越南可能實現出口成長率在5%至7%之間。

根文力博士認為,2024年經濟成長,全球可能趨於平穩或輕微下降,但越南預計將實現6%至6.5%的復甦,通貨膨脹完全在3.5%至4%的控制範圍內。 「為了確保這一成長率,2023年的財政機制和政策應繼續實施。貨幣政策,如降低利率,債務重組也需要延長執行到年底…對於企業來說,必須加強重組,多元化資金來源 ,提高適應性,尤其是迅速朝著綠色和數位化方向轉變」 – 專家建議。

「在當前情況下,2024年實現6%至6.5%的成長目標是相對具有挑戰性的。然而,2023年年底的許多條件和變化都支持2024年的成長前景」 –  黎維平 博士 – 越南Economica 總經理強調。

資料來源:Phap Luat Viet Nam |連結

參考我們SIA的服務|連結

Công bố của Việt Nam về Luật và Quy định về cơ chế giá mua điện tái tạo

Chính phủ Việt Nam đã công bố Nghị định số 19/2023/TT-BCT vào ngày 1 tháng 11 năm 2023, thiết lập cơ chế giá mua điện tái tạo, chính thức có hiệu lực từ ngày 19 tháng 12 năm 2023 và sẽ được công bố hàng năm. Các loại năng lượng áp dụng cho giá bao gồm: điện mặt trời mặt đất, điện gió nổi, điện gió trong đất liền và điện gió ngoài khơi; trong đó, giá điện mặt trời sẽ thay đổi tùy thuộc vào khu vực, bao gồm Bắc, Trung và Nam. Các dự án năng lượng mặt trời đã đi vào hoạt động trước ngày 1 tháng 1 năm 2021 và dự án điện gió hoạt động trước ngày 1 tháng 11 năm 2021 sẽ không bị ràng buộc bởi cơ chế giá mới.

EVN từ chối đàm phán mua điện tái tạo chuyển tiếp

Tóm tắt tình hình trước đó:

Bộ Công Thương Việt Nam đã công bố mức giá mua điện tái tạo từ năng lượng mặt trời là 9.35 cent Mỹ/ kWh, tương đương khoảng 2.86 đồng/kWh, áp dụng cho các dự án hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm 2020. Mức giá mua điện tái tạo từ năng lượng gió được công bố vào năm 2018 (gió đất liền: 8.5 cent Mỹ/kWh, tương đương khoảng 2.4 đồng/kWh; gió ngoài khơi: 9.8 cent Mỹ/kWh, tương đương khoảng 2.7 đồng/kWh), áp dụng cho các trạm gió hoàn thành trước ngày 31 tháng 10 năm 2021, cũng như cho những dự án chuyển giao chưa kịp hoàn thành trước các hạn chót nêu trên.

Giá điện sản xuất (VND/kWh) = Giá trung bình cố định (VND/kWh) + Chi phí quản lý và vận hành cố định (VND/kWh)

Trong đó, cách tính giá trung bình cố định như sau:

Giá trung bình cố định = Vốn đầu tư điều chỉnh hàng năm cho xây dựng (không bao gồm VAT) / Số điện được giao trong nhiều năm trung bình (kWh)

Cách tính chi phí quản lý và vận hành cố định như sau:

Chi phí quản lý và vận hành cố định = Tổng chi phí quản lý và vận hành cố định (VND) / Số điện được giao trong nhiều năm trung bình (kWh)

Các tham số khác bao gồm tuổi thọ vận hành của nhà máy điện (20 năm), tỷ lệ nợ ngoại tệ và đồng Việt Nam (80/20), tỷ lệ nợ và vốn cổ phần (70/30) cùng với thời hạn trung bình trả nợ (10 năm) và những yếu tố khác.

Việc đánh giá “Công trình điện mặt trời và điện gió tiêu chuẩn” sẽ được EVN chịu trách nhiệm thực hiện trước ngày 1 tháng 11 hàng năm, để làm cơ sở cho việc tính toán giá cước, và sau đó nộp các tính toán liên quan đến Cơ quan Quản lý Điện lực Việt Nam (ERAV), và được ERAB chấp thuận và công bố.

Theo báo cáo tiếng Anh liên quan, giá cước này không áp dụng cho toàn bộ chu kỳ hoạt động (như là 20 năm), mà là áp dụng giá cước khác nhau mỗi năm, điều này sẽ tăng sự không chắc chắn trong đầu tư phát triển. Hơn nữa, giá cước năng lượng mặt trời phụ thuộc vào khu vực và sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu đầu tư của các doanh nghiệp; cuối cùng, trong giá mua điện cũng không có cơ chế điều chỉnh giá dựa trên biến động tỷ giá.

Nguồn: Vocus | Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA | Liên kết

10 dấu ấn nổi bật trong phát triển kinh tế-xã hội năm 2023

1. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng kinh tế toàn cầu

Kinh tế – xã hội tiếp tục xu hướng phục hồi, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước, cơ bản đạt được mục tiêu tổng quát đề ra và đạt nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực; tiếp tục là điểm sáng của kinh tế toàn cầu; đạt và vượt 10/15 chỉ tiêu.

Năm 2023, Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế ghi nhận là quốc gia đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát thấp hơn mục tiêu Quốc hội đề ra; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát; tăng trưởng được thúc đẩy; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Tăng trưởng GDP cả năm khoảng 5%, là nỗ lực rất lớn trong bối cảnh tình hình chung toàn cầu rất khó khăn, giúp nền kinh tế nước ta vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới. Khu vực nông nghiệp là điểm sáng và tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế trong khó khăn; khu vực dịch vụ phát triển khá sôi động, khu vực công nghiệp và xây dựng từng bước phục hồi.

Nhiều tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao kết quả và triển vọng của nền kinh tế nước ta và dự báo Việt Nam sẽ phục hồi nhanh trong thời gian tới. Fitch Ratings đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+ (từ mức BB), với triển vọng “Ổn định”. Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam đạt 431 tỷ USD, tăng 1 bậc lên thứ 32/100 thương hiệu quốc gia mạnh trên thế giới.

2. Đối ngoại, hội nhập đạt những thành tựu lịch sử

Việt Nam tổ chức đón, tiếp thành công Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình 
Việt Nam tổ chức đón, tiếp thành công Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden

Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai sôi động, bài bản, liên tục, thành công toàn diện và là điểm sáng nổi bật của năm 2023, với sự kết hợp nhịp nhàng, chặt chẽ, hiệu quả của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân.

Nhiều thành tựu đối ngoại quan trọng có tính lịch sử, tạo thời cơ, vận hội mới để phát triển đất nước; nổi bật là công tác chuẩn bị và tổ chức đón, tiếp thành công các chuyến thăm chính thức cấp nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden. Một loạt chuyến thăm và làm việc ở nước ngoài của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã làm sâu sắc thêm quan hệ tốt đẹp với nhiều đối tác quan trọng. Hình ảnh, tầm vóc, uy tín và vị thế Việt Nam được nâng lên tầm cao mới.

Đến nay, nước ta đã có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 05 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và nhiều nước G20; góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; duy trì được môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3. Chuyển biến vượt bậc trong phát triển hệ thống đường cao tốc

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, đã hoàn thành, đưa vào sử dụng 729 km đường bộ cao tốc, nâng tổng số km đường cao tốc đưa vào khai thác đến nay là 1.892 km

Việc thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, có sự chuyển biến vượt bậc, đặc biệt là hệ thống đường bộ cao tốc.

Năm 2023 là năm có nhiều dự án cao tốc hoàn thành và khởi công mới nhất trong hơn một thập kỷ qua. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, đã hoàn thành, đưa vào sử dụng 729 km đường bộ cao tốc, nâng tổng số km đường cao tốc đưa vào khai thác đến nay là 1.892 km, đồng thời đang thi công khoảng 1.700 km cao tốc, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mục tiêu cả nước có khoảng 3.000 km đường cao tốc vào năm 2025, 5.000 km cao tốc vào năm 2030.

Về hàng không, hoàn thành đưa vào khai thác Nhà ga hành khách T2, cảng hàng không Phú Bài, Điện Biên; xử lý quyết liệt, dứt điểm vướng mắc để khởi công nhà ga hành khách T3 – Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành… bảo đảm chất lượng, tiến độ yêu cầu.

4. Xây dựng, hoàn thiện thể chế được chú trọng xứng tầm đột phá chiến lược

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 12/2023

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách được chú trọng xứng tầm đột phá chiến lược với nhiều đổi mới trong chỉ đạo, cách làm. Chính phủ đã nhận được sự chia sẻ, đồng hành, phối hợp chặt chẽ Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trong năm 2023, Quốc hội đã thông qua 16 luật, 29 Nghị quyết và cho ý kiến 18 dự án luật. Chính phủ đã tổ chức 10 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật, cho ý kiến đối với 47 nội dung, tập trung hoàn thiện, trình Quốc hội dự án Luật Đất đai (sửa đổi). Chính phủ ban hành 86 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 29 quyết định quy phạm. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước được triển khai quyết liệt, có hiệu quả; trong đó tập trung cắt giảm, đơn giản hóa, phân cấp giải quyết thủ tục hành chính. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy; chấn chỉnh tình trạng cán bộ, công chức đùn đẩy, sợ trách nhiệm, sợ sai trong thực thi công vụ, đã ban hành Nghị định của Chính phủ về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Công tác quy hoạch được đẩy nhanh, 108/111 quy hoạch đã hoàn thành việc lập, thẩm định, phê duyệt, chất lượng được nâng lên; đã ban hành Quy hoạch tổng thể quốc gia và nhiều quy hoạch ngành, lĩnh vực, tỉnh.

5. Xuất khẩu nông sản lập đỉnh, mở rộng thêm các thị trường mới

Trong bối cảnh thị trường gặp nhiều khó khăn, song tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn ước đạt 683 tỷ USD, xuất siêu khoảng 26 tỷ USD, trong đó xuất khẩu nông sản, nhất là các mặt hàng rau quả và gạo lập đỉnh mới với nhiều con số kỷ lục.

Cụ thể, nhóm nông sản đạt 24,3 tỷ USD, tăng 17% so với năm ngoái. Có 6 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu hơn 3 tỷ USD gồm cà phê, gạo, rau quả, hạt điều, thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ.

Xuất khẩu rau quả đạt 5,6 tỷ USD, mức cao kỷ lục và vượt xa kỳ vọng ban đầu “cả năm 4 tỷ USD”. Trong 11 tháng, xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng lập kỷ lục với hơn 7,7 triệu tấn gạo cho giá trị hơn 4,4 tỷ USD, tăng hơn 36% so với năm ngoái. Hạt gạo Việt đã vượt qua các đối thủ để giành vị trí số 1 cuộc thi gạo ngon nhất thế giới.

Với việc ký kết Hiệp định thương mại tự do song phương (VIFTA) với Israel, đến nay, Việt Nam đã ký và tham gia 16 FTA, đang tiếp tục đàm phán 3 FTA nữa là Việt Nam-EFTA (Thụy Sĩ, Na Uy, Iceland, Liechtenstein), ASEAN-Canada, và Việt Nam-UAE.

6. Kỷ lục trong giải ngân vốn FDI và thành lập doanh nghiệp mới

 

Tính đến ngày 20/12/2023, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam (FDI) đạt gần 36,61 tỷ USD, tăng 32,1% so với cùng kỳ, là năm cao thứ ba trong giai đoạn 2008 đến nay. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 23,18 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm 2022, là mức giải ngân đạt kỷ lục từ trước tới nay trong bối cảnh thương mại đầu tư toàn cầu bị thu hẹp. Xếp hạng môi trường kinh doanh Việt Nam cũng tăng 12 bậc trên toàn cầu.

Hoạt động đăng ký kinh doanh năm 2023 rất ấn tượng với kỷ lục gần 160.000 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 7,2% so với năm 2022, gấp 1,2 lần mức bình quân giai đoạn 2017-2022 và tăng 4,6% so với ước thực hiện cả năm 2023.

Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2023 cũng đạt hơn 58.400. Như vậy, số doanh nghiệp gia nhập và quay lại thị trường tiếp tục ở mốc hơn 200.000, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2022 và gấp 1,3 lần số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong năm.

7. Quyết liệt thúc đẩy những ngành, lĩnh vực mới nổi

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu cắt băng khánh thành Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia. NIC cơ sở Hòa Lạc với thiết kế hình cánh chim đại bàng cất cánh, là biểu tượng cho sứ mệnh hiện thực hóa ý tưởng sáng tạo, thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển vươn xa

Năm 2023 ghi những dấu ấn mới trong cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển những ngành, lĩnh vực mới nổi, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ.

Chuyển đổi số quốc gia được tích cực thúc đẩy, ước cả năm 2023 tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 15% GDP. Đề án phát triển, ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử (Đề án 06) được chỉ đạo và thực hiện quyết liệt với quyết tâm cao và đạt nhiều kết quả ấn tượng, góp phần hạn chế tiêu cực, tiết kiệm thời gian, công sức cho người dân, doanh nghiệp, là một “điểm sáng” trong chuyển đổi số ở nước ta.

Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển mạnh; khánh thành Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC); tập trung xây dựng, hoàn thiện 03 Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo quốc gia tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam xếp hạng 46/132, tăng 02 bậc so với năm 2022.

Năm 2023 cũng đánh dấu bước nhảy vọt của Việt Nam trong lĩnh vực bán dẫn với hàng loạt thỏa thuận, dự án hợp tác phát triển với các đối tác hàng đầu, những tập đoàn, doanh nghiệp khổng lồ trên thế giới.

Việt Nam triển khai quyết liệt các chương trình hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm phát thải, chuyển đổi năng lượng theo tuyên bố chính trị về chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP), lần đầu tiên bán tín chỉ carbon và phát hành trái phiếu xanh, thể hiện trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế đưa phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

8. Dấu ấn tháo gỡ khó khăn, khơi thông nguồn lực

Đầu tư công được cơ cấu lại theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho các dự án có tính lan tỏa cao, tạo động lực phát triển

Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung rà soát, phát hiện, xử lý kịp thời những bất cập, khó khăn, vướng mắc, cả về quy định pháp luật, cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện, khơi thông nguồn lực, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, sinh kế cho người dân, bảo đảm đời sống cho người lao động.

Ước giải ngân đầu tư công cả năm khoảng 667,882 nghìn tỷ đồng, đạt 94,3% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cao hơn cùng kỳ năm 2022 khoảng 2,88% (91,42%), về số tuyệt đối cao hơn khoảng 137,6 nghìn tỷ đồng. Đầu tư công được cơ cấu lại theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho các dự án có tính lan tỏa cao, tạo động lực phát triển.

Chính phủ quyết liệt xử lý, tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, bất cập, phát triển các loại thị trường đồng bộ, an toàn, lành mạnh, bền vững và hội nhập; việc ổn định và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản khởi sắc tích cực hơn. Tiếp tục xử lý nợ xấu, cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, nhất là 05 ngân hàng yếu kém.

Tập trung cơ cấu lại, nâng cao, cải thiện hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; tiếp tục xử lý hiệu quả bước đầu 8/12 dự án, doanh nghiệp thua lỗ đã kéo dài nhiều năm; hoàn thành và đưa vào vận hành nhiều dự án điện lớn, quan trọng sau thời gian dài gián đoạn.

9. Đạt và vượt toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch về xã hội

Việc tổ chức kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương về Văn hóa Việt Nam và Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam lần đầu tiên được tổ chức, là những sự kiện quan trọng để tiếp tục cụ thể hóa, triển khai chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Đảng Nhà nước về phát triển văn hóa, đặc biệt là những chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển, đạt kết quả rõ nét hơn. Toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch về xã hội đều đạt và vượt mục tiêu đề ra, thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta, không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.

Trước khó khăn của nền kinh tế, Quốc hội, Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách miễn, giảm, gia hạn các loại thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất. Tổng trị giá của các chính sách này khoảng gần 200 nghìn tỷ đồng và tính đến tháng 11, đã miễn, giảm, gia hạn trên 172 nghìn tỷ đồng (trong đó miễn, giảm khoảng 65 nghìn tỷ đồng). Tăng thu, tiết kiệm chi, trích lập quỹ tiền lương (đến nay được khoảng 560 nghìn tỷ đồng), bảo đảm đủ nguồn để cải cách tiền lương trong 3 năm 2024 – 2026.

Công tác bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo cho đời sống người lao động, nhất là các nhóm yếu thế, đối tượng chính sách tiếp tục được đẩy mạnh. Đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện, thu nhập bình quân của người lao động tăng 6,8%; trên 94% số hộ gia đình đánh giá có thu nhập ổn định hoặc cao hơn cùng kỳ năm 2022. Theo Báo cáo Hạnh phúc thế giới vào tháng 3/2023 của Liên Hợp Quốc, Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 12 bậc, từ vị trí 77 lên vị trí 65 trong bảng xếp hạng toàn cầu.

Việc tổ chức kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương về Văn hóa Việt Nam và Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam lần đầu tiên được tổ chức, là những sự kiện quan trọng để tiếp tục cụ thể hóa, triển khai chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Đảng Nhà nước về phát triển văn hóa, đặc biệt là những chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021.

10. Đẩy mạnh và tăng cường công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực

Công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, khẳng định đây là xu thế tất yếu, không thể đảo ngược được, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước. Có nhiều bước tiến mới trong điều tra, khám phá, xét xử nhiều vụ án lớn; đã khởi tố mới, điều tra nhiều vụ án tham nhũng, tiêu cực đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội rất quan tâm xảy ra trong những lĩnh vực chuyên môn sâu, hoạt động khép kín, có sự đan xen giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước mà từ trước tới nay chưa xử lý được, như: Tiếp tục điều tra mở rộng giai đoạn 2 vụ án liên quan đến Công ty Việt Á; vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao); các vụ án xảy ra tại Tập đoàn FLC; Tân Hoàng Minh như: vụ án xảy ra tại Ngân hàng SCB, Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Công ty An Đông…; xử lý nhiều bị can là cán bộ cấp cao, cả đương chức và nghỉ hưu theo tinh thần “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, dù bất kể đó là ai”

Nguồn:Chinh phu |Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA|Liên kết

 

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới

Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua vào năm 1987, dòng vốn FDI đã không ngừng chảy vào Việt Nam. Trong hơn 35 năm, Việt Nam đã tạo dựng vị thế và trở thành điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư trên khắp thế giới.

Ảnh internet.

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ thế giới

Từ con số 2 triệu USD năm 1988, vốn FDI “đổ” vào Việt Nam đã lên đến 524 tỷ USD ghi nhận cuối năm 2022. Với hơn 36.000 dự án FDI đang hoạt động, Việt Nam đã chứng tỏ được khả năng trong thu hút và quản lý đầu tư nước ngoài.

Nguồn vốn FDI dồi dào mang đến cho Việt Nam một hình ảnh mới trên “bản đồ” thương mại. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI không những là mắt xích quan trọng, mà còn tạo đòn bẩy để Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, điều này được thể hiện khi khu vực FDI luôn là đầu tàu dẫn dắt xuất khẩu của Việt Nam.

Tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng nhanh chóng, từ mức 30% vào năm 1997 – khi Việt Nam gia nhập ASEAN lên 65% giai đoạn 2011-2015, khoảng 71% giai đoạn 2016-2020 (theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

Thêm vào đó, thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp FDI trong năm 2022 đạt 506,83 tỷ USD, tăng 9,3% so với năm 2021. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của khối doanh nghiệp FDI đạt 273,63 tỷ USD, tăng 11,6% so với năm 2021 và chiếm 73,7% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới. Ảnh internet.

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ thế giới

Trị giá nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI trong năm 2022 đạt 233,2 tỷ USD, tăng 6,7% so với năm 2021, chiếm 65% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước. Cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh nghiệp FDI năm 2022 lên mức thặng dư 40,42 tỷ USD.

Khu vực FDI chiếm ưu thế trong giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam. Điều này thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp FDI tại đất nước hình chữ S và đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp này vào nền kinh tế Việt Nam.

Vai trò của khu vực FDI thêm quan trọng, nhất là trong việc nâng cao trình độ công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ và chuyển giao kỹ năng quản lý cho người Việt Nam, thúc đẩy sự đổi mới công nghệ đối với các doanh nghiệp trong nước. Từ đó, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam được nâng lên trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Một trong những hạn chế lớn nhất trong hành trình này là sự thiếu liên kết giữa nhóm doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước. Doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia được vào hệ sinh thái và chuỗi giá trị của các doanh nghiệp đầu chuỗi và doanh nghiệp FDI.

Nhóm nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) nhận thấy, sau nhiều năm đẩy mạnh thu hút FDI, Việt Nam chủ yếu hình thành liên kết với một số doanh nghiệp FDI bằng hình thức liên kết dọc, bao gồm liên kết ngược và liên kết xuôi.

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới. Ảnh internet.
Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới. 

Việt Nam chủ yếu tham gia vào những mắt xích có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu, đa phần thâm dụng lao động và yêu cầu kỹ thuật thấp. Nhiều doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu để thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp FDI.

Trong các dự án FDI, hình thức nhà đầu tư nước ngoài liên doanh với doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm 13%, còn lại đều là 100% vốn ngoại, cho thấy rõ việc doanh nghiệp chưa thể theo chân “đại bàng” để cất cánh.

Để vừa thu hút và thúc đẩy mối liên kết giữa các doanh nghiệp Việt với doanh nghiệp FDI, cần chú ý bài toán nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất lao động cho doanh nghiệp trong nước; nhấn mạnh việc thiết lập liên kết vùng. Việc tạo ra sự kết nối giữa các vùng đang trở thành biện pháp quan trọng thúc đẩy phát triển cụm công nghiệp, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

Tiếp đó là đẩy mạnh chuyển giao công nghệ tiên tiến. Trong đó, Chính phủ cần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách liên quan đến đầu tư, chuyển giao công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường và phát triển bền vững. Về phía doanh nghiệp, cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm các cơ hội chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI, bao gồm các thỏa thuận mua bản quyền, phát minh hoặc thương quyền…

Cuối cùng, cần tập trung hoàn thiện chính sách hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu gắn với kết nối sản xuất và cung ứng giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp ở nước ngoài.

Nguồn: Thuong hieu va Cong luan | Liên kết

Tham khảo thêm dịch vụ của SIA | Liên kết

Đưa năng lượng tái tạo trở thành trụ cột kinh tế quan trọng của Việt Nam

Quy hoạch Điện VIII (PDP8) được Việt Nam phê duyệt gần đây đã đặt ra các mục tiêu về năng lượng tái tạo đầy tham vọng vào năm 2030. Các mục tiêu được đề cập trong PDP8 chủ yếu tập trung vào việc thúc đẩy năng lượng tái tạo đồng thời giảm sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu hóa thạch như than đá.

VPUB – Thúc đẩy tiềm năng phát triển điện gió tại địa phương - CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH ĐIỆN BIÊN

Theo các chuyên gia của McKinsey, mục tiêu này khiến Việt Nam đối mặt một vấn đề nan giải đó là các dự án năng lượng tái tạo hiện tại không phải lúc nào cũng có khả năng được cấp vốn do quy định chồng chéo.

Tuy nhiên, điều kiện thị trường hiện tại lại mang đến cho ngành năng lượng Việt Nam một cơ hội có một không hai. Cụ thể, thay vì chỉ tập trung đầu tư vào Trung Quốc, nhiều nhà sản xuất trên thế giới hiện đang tích cực đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ sang các quốc gia láng giềng, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam có thể triển khai nhiều dự án năng lượng tái tạo hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng tái tạo của khách hàng thương mại và công nghiệp (C&I), cũng như hỗ trợ cho các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Theo McKinsey, nếu có thể nắm bắt cơ hội này và giải quyết những thách thức đang tồn tại, Việt Nam có tiềm năng dẫn đầu khu vực về công suất lắp đặt các dự án năng lượng tái tạo cũng như khả năng sản xuất năng lượng bền vững.

Là một phần trong thông qua việc thúc đẩy PDP8 cho năng lượng tái tạo, Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để đạt được điều này, Việt Nam cần nhanh chóng tăng cường kết hợp năng lượng tái tạo để có khả năng khử carbon trong ngành điện khoảng 78%.

May mắn là tiềm năng về năng lượng tái tạo ở Việt Nam vô cùng lớn vì đây là quốc gia phù hợp nhất ở Đông Nam Á để phát triển năng lượng gió và mặt trời, với công suất tiềm năng đạt 1.000 gigawatt (GW).

Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên mang lại tiềm năng lớn về năng lượng gió và năng lượng mặt trời

Để nắm bắt được cơ hội, Việt Nam cần tăng cường đầu tư, xây dựng và tích hợp năng lượng mặt trời và năng lượng gió để cho phép quốc gia cung cấp 50 hoặc 100% năng lượng tái tạo (RE50/RE100) theo cách hiệu quả về mặt kinh tế.

Đưa năng lượng tái tạo trở thành trụ cột kinh tế quan trọng của Việt Nam - Ảnh 2.

Mục tiêu công suất nguồn điện của Việt Nam trong Quy hoạch Điện 8 (Đơn vị: Gigawatts – Gwh)

Việt Nam chuyển hướng sang năng lượng tái tạo: Nắm bắt cơ hội dẫn đầu về phát triển bền vững

Nếu không sớm chuyển sang năng lượng tái tạo, Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với những rủi ro sau:

Mất điện liên tục và rủi ro về an ninh năng lượng

Nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng và điều kiện thời tiết khắc nghiệt đã ảnh hưởng không nhỏ đến Việt Nam. Theo McKinsey, năng lượng tái tạo mang lại nguồn an ninh năng lượng độc lập, không phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu.

Gần đây, Việt Nam đã phải đối mặt với tình trạng thiếu điện và mất điện do nắng nóng cực độ, hạn hán và mực nước ở các nhà máy thủy điện thấp kỷ lục. Trước tình hình đó, EVN đã tiến hành cắt điện luân phiên trên khắp cả nước , đặc biệt ở khu vực phía Bắc. Điều này đã ảnh hưởng đến người dân, ngành du lịch và các khu công nghiệp.

Báo cáo của McKinsey nhận định, Việt Nam cần mở rộng phát triển năng lượng tái tạo càng nhanh càng tốt để đạt được cam kết của Chính phủ trong việc đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050 cũng như các mục tiêu được đề cập trong PDP8. Theo đó, PDP8 đặt mục tiêu các nguồn năng lượng gió, mặt trời và các nguồn tái tạo khác (trừ thủy điện), chiếm ít nhất 32% nhu cầu năng lượng của đất nước vào năm 2030.

Nguy cơ mất lợi thế

Nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng cũng như lực lượng lao động dồi dào, nhiều công ty đã lựa chọn Việt Nam là một giải pháp để đa dạng hóa chuỗi cung ứng thay vì phụ thuộc vào Trung Quốc. Tuy nhiên, theo các chuyên gia của McKinsey, Việt Nam có nguy cơ đánh mất lợi thế này nếu không kịp thời đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng tái tạo ngày một tăng của các doanh nghiệp nước ngoài.

Nhiều nhà sản xuất lớn nhất thế giới đã cam kết sử dụng 100% năng lượng tái tạo cho hoạt động sản xuất của công ty, chẳng hạn như những doanh nghiệp thuộc nhóm sáng kiến toàn cầu RE100 – Chiến dịch nhằm mục đích tập hợp các công ty trong danh sách Global Fortune 500 để cùng thực hiện cam kết sử dụng 100% năng lượng tái tạo.

Nếu không thể đảm bảo đủ năng lượng tái tạo, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ khó có thể đầu tư vào Việt Nam. Vì vậy, dòng vốn đầu tư sẽ đổ vào nhiều hơn nếu Việt Nam có thể cung cấp năng lượng cho nhóm RE100.

Rủi ro từ nền tảng kinh tế hiện nay của Việt Nam

Theo McKinsey, các nền tảng kinh tế hiện nay của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng nếu không triển khai dự án năng lượng Theo McKinsey, các nền tảng kinh tế hiện nay của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng nếu không triển khai dự án năng lượng tái tạo trên quy mô lớn. Lý do bởi các sản phẩm không được sản xuất bởi nguồn năng lượng sạch có thể sẽ phải chịu thêm thuế carbon.

Ví dụ, hơn 10 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng bởi các quy định liên quan đến thuế biên giới carbon vào năm 2030. Hơn nữa, nếu các quốc gia khác ban hành các loại thuế tương tự, con số này có thể lên đến 20 tỷ USD. Trường hợp danh sách các sản phẩm sản xuất phải tuân thủ theo quy định được mở rộng ngoài các sản phẩm công nghiệp, ít nhất 200 tỷ USD giá trị kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam có thể gặp rủi ro.

Điện mặt trời - Pin mặt trời

Mối nguy hiểm hữu hình từ biến đổi khí hậu

Việt Nam phải đối mặt với rủi ro hữu hình do biến đổi khí hậu. Trong đó, các thành phố là những khu vực dễ bị tổn thương bởi những rủi ro đến từ biến đổi khí hậu. Chẳng hạn, nguy cơ ngập lụt tại Thành phố Hồ Chí Minh có thể tăng gấp 10 lần cho đến năm 2050. Không chỉ vậy, trong trường hợp mực nước biển dâng lên mức 180cm, 66% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh có thể chìm trong nước. Những rủi ro về biến đổi khí hậu có thể có thể khiến 40% diện tích thành phố đối mặt với tình trạng ngập lụt, dẫn tới thiệt hại về kinh tế và cơ sở hạ tầng có thể lên tới 15-20 tỷ USD.

Nếu Việt Nam không nhanh, cơ hội sẽ thuộc về các nước láng giềng

Trong khi các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam có dấu hiệu tụt hậu thì các nước láng giềng đang bắt đầu đưa ra các giải pháp tiết kiệm chi phí cho các dự án năng lượng tái tạo. Ví dụ, Ấn Độ đã đặt mục tiêu đạt 500 GW công suất năng lượng tái tạo vào năm 2030 và đã ban hành Đạo luật Điện lực năm 2003. Theo đó, quốc gia này đã mở đường cho các doanh nghiệp tiếp cận với các thỏa thuận mở và hợp đồng mua bán điện (PPA).

Samsung đang nhắm đến việc đưa Ấn Độ trở thành trung tâm sản xuất điện thoại thông minh. Không chỉ vậy, Foxconn cũng đang thảo luận để khởi động một nhà máy ở bang Tamil Nadu của nước này.

Malaysia cũng là một ví dụ bên cạnh Ấn Độ. Cụ thể, để đạt được mục tiêu sử dụng 70% năng lượng tái tạo vào năm 2050, quốc gia này đã ban hành các hợp đồng mua bán điện ảo (VPPA) cho phép người tiêu dùng được sử dụng nguồn điện lớn hơn 1 megawatt (MW).

Ngược lại, với mức giá hiện tại, các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam thường không mang lại hiệu quả kinh tế nhất quán, gây bất lợi cho các nhà phát triển. Việt Nam vẫn chưa cho phép các hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPAs) cũng như chưa thiết lập các cơ chế (bao gồm cả cơ chế đấu giá) để mở đường cho các dự án năng lượng tái tạo. Giá năng lượng cao và tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo thấp ở Việt Nam có thể dẫn đến gánh nặng tài chính cho người tiêu dùng và nguy cơ mất vốn đầu tư nước ngoài.

Làm thế nào để khu vực công và tư nhân của Việt Nam có thể cùng giải quyết các vấn đề về năng lượng và đảm bảo tương lai kinh tế của Việt Nam?

Bên cạnh những thách thức để phát triển năng lượng tái tạo hiệu quả, những quan sát và nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng Việt Nam có thể giải quyết vấn đề nan giải về năng lượng và đảm bảo tương lai kinh tế thông qua việc thúc đẩy hợp tác giữa khu vực công và tư nhân.

Sáu phương án thực tiễn tổng quát tốt nhất có thể mở khóa năng lượng tái tạo bao gồm:

Thứ nhất, chấp thuận cơ chế DPPAs để cho phép giao dịch năng lượng tái tạo bên ngoài cơ sở. Điều này có thể đảm bảo khả năng sinh lợi và sinh lời của năng lượng tái tạo thông qua việc đo lường mạng và truy cập mở. Bên cạnh đó, DPPAs sẽ loại bỏ các hạn chế, người mua có thể mua năng lượng sạch trực tiếp từ các nhà phát triển tư nhân (tức là ở bên ngoài địa điểm của người tiêu dùng) thay vì mua năng lượng hỗn hợp từ EVN. Điều này có thể khuyến khích các nhà phát triển ở lại và đầu tư thêm vào Việt Nam.

Thứ hai, cam kết quy định và mục tiêu rõ ràng. Cần có quy định để tạo ra sự công bằng trong ngành và tính minh bạch cho các nhà phát triển. Cụ thể:

(1) Sửa đổi và cải thiện các hợp đồng mẫu về mua bán điện (PPAs) trong việc bồi thường khi chấm dứt và cắt giảm. Ví dụ trong trường hợp Tập đoàn Điện lực Việt Nam không thể mua năng lượng bao tiêu.

(2) Tạo cơ chế trao thầu các dự án năng lượng tái tạo mới bao gồm phân bổ địa điểm và giá bao tiêu, đặc biệt đối với điện gió ngoài khơi.

(3) Thiết lập các mục tiêu phát triển hydro và các nhiên liệu thay thế khác, cùng với các chính sách ưu đãi cho các ngành này.

Thứ ba, đầu tư vào lưới điện. Các nhà phát triển và nhà đầu tư có thể bị thu hút bởi các dự án mới nếu lưới điện được cập nhật để cho phép các dự án JETP và các khoản đầu tư khác. Khả năng khu vực tư nhân tham gia phát triển và vận hành lưới điện cũng có thể giúp Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư.

Thứ tư, hoàn tất đàm phán với nhiều Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á để xuất khẩu năng lượng tái tạo. Khu vực công có thể xác định các quy tắc cho các đơn đăng ký yêu cầu đề xuất và các biên bản ghi nhớ với các quốc gia lân cận.

Thứ năm, thí điểm các khu công nghiệp RE100 tại các tỉnh đang đóng vai trò là “ngọn hải đăng” dẫn đường. Các địa phương có thể nắm giữ vị trí dẫn đầu về năng lượng tái tạo và thu hút FDI bằng cách khuyến khích thành lập khu công nghiệp RE100. Điều này đòi hỏi sự hợp tác của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các đơn vị liên quan để thu hút cả các nhà phát triển năng lượng tái tạo và khách hàng C&I.

Thứ sáu, giới thiệu các yếu tố hỗ trợ chính khác. Khi đến giai đoạn thực hiện, Việt Nam có thể xem xét áp dụng các biện pháp như thuế carbon và thị trường carbon càng sớm càng tốt, từ đó khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo với mức giá tương đối thấp hơn.

Những bước đi táo bạo của khu vực tư nhân

Phối hợp với khu vực công, các doanh nghiệp tư nhân có thể hành động ngay lập tức để nắm bắt cơ hội phát triển. Họ có thể xem xét bốn quyết định chiến lược lớn:

Thứ nhất, các nhà phát triển cam kết xây dựng đường dẫn điện GW. Điều này có thể giúp các nhà cung cấp đầu tư vào hệ sinh thái chuỗi giá trị địa phương và giảm chi phí thông qua quy mô kinh tế. Ngoài ra, quyết định này có thể sẽ khuyến khích chính quyền địa phương phát triển lực lượng lao động địa phương.

Thứ hai, khách hàng C&I cam kết bao tiêu thông qua DPPAs. Khách hàng của C&I có thể đảm bảo nhu cầu và mức tiêu thụ, giúp các dự án RE100 ban đầu ngay lập tức có khả năng được cấp vốn—đặc biệt nếu họ sẵn sàng trả phí bảo hiểm xanh cho các điện tử tái tạo 24/7.

Thứ ba, các nhà phát triển và nhà cung cấp giảm chi phí thông qua thiết kế tiêu chuẩn hóa. Khi các nhà phát triển đã cam kết với quy mô của quy trình, họ có thể chuẩn hóa một thiết kế được tối ưu hóa trên các địa điểm khác nhau, cho phép vận hành thử nhanh chóng và giảm chi phí.

Thứ tư, các nhà phát triển và người tiêu dùng nắm bắt hạ nguồn công nghệ xanh. Các nhà phát triển có thể cân nhắc đầu tư vào (hoặc tạo ra) công nghệ xanh để đẩy nhanh hành trình sử dụng năng lượng tái tạo, chẳng hạn như hydro xanh hoặc sạc xe điện. Ngoài ra, người tiêu dùng có thể cam kết sử dụng công nghệ xanh, chẳng hạn như mức tiêu thụ và giá tiêu thụ hydro.

Sức mạnh của sự hợp tác

Với việc khu vực công và tư nhân hoạt động song song, Việt Nam có thể đạt được RE50 hoặc RE100 về mặt kinh tế trong ba khoảng thời gian.

Thứ nhất, trong vòng 12-18 tháng tới, quốc gia có thể thiết lập khung pháp lý và cam kết thực hiện, triển khai các mô hình thí điểm PPAs và DPPAs, kèm theo cam kết công khai về RE50 và RE100.

Thứ hai, Việt Nam có thể tăng đáng kể công suất lắp đặt năng lượng tái tạo và tiếp tục thu hút FDI trong vòng 5-7 năm tới. Điều này có thể đạt được bằng cách chuyển sang RE50 hoặc RE100 ở một số tỉnh và tạo điều kiện cho các nguồn năng lượng tái tạo dư thừa .

Thứ ba, trong vòng một thập kỷ, quốc gia này có thể rút ngắn thời gian đạt được mục tiêu đưa phát thải ròng về 0 bằng việc sử dụng năng lượng tái tạo trên khắp đất nước. Thực hiện được các khuyến nghị trên, Việt Nam có thể dẫn đầu Đông Nam Á, trở thành nền kinh tế năng lượng tái tạo có giá trị cao nhất.

Ưu nhược điểm của năng lượng tái tạo: Nhìn từ thực tế

Mặc dù hành trình này còn nhiều thách thức, nhu cầu cấp thiết của Việt Nam trong việc phát triển nguồn năng lượng tái tạo nhằm đạt được các mục tiêu đầy tham vọng của PDP8 có thể được đáp ứng. Điều này có thể đạt được khi khu vực công mở đường bằng cách thiết lập các quy định rõ ràng và giảm thiểu rủi ro dự án cho các nhà phát triển, đồng thời khu vực tư nhân cam kết chuyển đổi quy mô lớn với các dự án nhiều GW, tạo ra hệ sinh thái năng lượng tái tạo tại địa phương ở Việt Nam, và sẵn sàng kéo đòn bẩy giảm chi phí.

Nguồn:Cafe F |Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA|Liên kết