Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng mà nhiều nước chỉ có thể mơ ước

Suy thoái kinh tế toàn cầu đã tác động đến nhu cầu xuất khẩu của Việt Nam, khiến 2023 trở thành một trong những năm thách thức nhất của thế kỷ 21, sau hai năm COVID-19 2020 và 2021. Tuy vậy, GDP năm 2023 vẫn tăng 5,05%, thuộc top cao trong khu vực và thế giới.

Việt Nam kiên cường

Ông Andrea Coppola chọn từ “kiên cường” để nói về Việt Nam năm 2023. “Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam, suy thoái kinh tế toàn cầu là một cú sốc tiêu cực lớn đối với đất nước nhưng Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng mà nhiều nước trên thế giới chỉ có thể mơ ước“, ông nhấn mạnh.

Chuyên gia World Bank phân tích: Việt Nam là một trong những nền kinh tế mở nhất trên thế giới. Sự phụ thuộc vào nhu cầu từ các đối tác thương mại đã đưa Việt Nam vào thế phải đối mặt với tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu năm 2023. Vì thế, sau những năm COVID 2020 và 2021 rất khó khăn, tình hình kinh tế năm 2023 là kém mạnh mẽ nhất kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cuối những năm 1990.

Tuy nhiên, kinh tế của Việt Nam trong năm 2023 là tích cực trong bối cảnh toàn cầu đầy thách thức. Tăng trưởng kinh tế ở Mỹ là khoảng 2,5% vào năm 2023. Tại khu vực đồng Euro, tăng trưởng kinh tế thậm chí còn yếu hơn, chỉ ở mức khoảng 0,5%. Trong khi đó, bất chấp những thách thức toàn cầu, Việt Nam vẫn có thể tiếp tục tăng trưởng với tốc độ tương đối nhanh. Đầu tư công đã tăng khoảng 35% so với năm trước, giúp duy trì tăng trưởng kinh tế.

Ông Andrea Coppola, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Việt Nam

Ông Andrea Coppola, chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới (World Bank) tại Việt Nam

Ông Andrea Coppola ấn tượng với giai đoạn cuối năm 2023, khi kinh tế Việt Nam có dấu hiệu hồi phục. Ông nhận định, sự phục hồi này được thúc đẩy bởi ba yếu tố chính.

Thứ nhất, nhu cầu bên ngoài đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam dần phục hồi. Hoạt động xuất nhập khẩu được cải thiện trong nửa cuối năm. Thứ hai, các cơ quan chức năng đã cho thấy rõ vai trò quan trọng của việc thúc đẩy giải ngân đầu tư công, với con số tăng đáng kể so với năm 2022.

Đầu tư công là yếu tố then chốt vì chúng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn và vì vậy cải thiện hơn nữa quản lý đầu tư công là ưu tiên hiện nay của Việt Nam“, ông nói.

Thứ ba, bất chấp cú sốc mạnh giáng xuống nền kinh tế, tiêu dùng tư nhân vẫn phục hồi tốt. Sự tăng trưởng của doanh số bán lẻ, một chỉ số nói lên tiêu dùng cá nhân, ổn định ở mức khoảng 7,5% kể từ tháng 8. Tốc độ tăng trưởng này tuy chậm hơn đáng kể so với trước đại dịch COVID, nhưng tiêu dùng tư nhân vẫn là một động lực chính cho tăng trưởng kinh tế.

Tăng trưởng năm 2024 là đầy tham vọng

Theo chuyên gia kinh tế trưởng của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, do tăng trưởng kinh tế toàn cầu dự kiến sẽ tiếp tục chậm lại vào năm 2024 nên mục tiêu tăng trưởng GDP từ 6% – 6,5% cho năm 2024 là đầy tham vọng.

Bất chấp suy thoái toàn cầu, nhu cầu xuất khẩu của Việt Nam có thể dần được cải thiện và chúng tôi dự đoán tăng trưởng kinh tế sẽ tăng nhẹ nhưng sẽ rất khó đạt được mức 6 hoặc 6,5% trừ khi nhu cầu, tiêu dùng và đầu tư trong nước tăng tốc mạnh hơn nữa“, ông dự báo.

Tuy nhiên, ông cho rằng, các nhà chức trách có thể đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nền kinh tế thông qua chính sách tài khóa, bằng cách đẩy nhanh việc thực hiện các dự án cơ sở hạ tầng và dự án đầu tư công mang tính chuyển đổi trạng thái, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn và dài hạn.

Mục tiêu tăng trưởng GDP từ 6% - 6,5% cho năm 2024 là thách thức với kinh tế Việt Nam. (Ảnh minh họa: Sức khỏe Đời sống)

Mục tiêu tăng trưởng GDP từ 6% – 6,5% cho năm 2024 là thách thức với kinh tế Việt Nam.

Để tăng trưởng vững mạnh trong năm 2024, chuyên gia World Bank đề xuất tăng gấp đôi nỗ lực phát triển nguồn nhân lực bằng cách nâng cao trình độ của lực lượng lao động, và phát triển vốn vật chất thông qua đầu tư công vào cơ sở hạ tầng giao thông và năng lượng để có thể tăng cường hơn nữa khả năng cạnh tranh của khu vực tư nhân Việt Nam.

Người dân Việt Nam là nguồn nội lực lớn nhất của đất nước. Công nhân và doanh nhân Việt Nam đã giúp nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng gấp 7 lần trong 30 năm qua. Để duy trì mức tăng trưởng nhanh chóng này, với môi trường bên ngoài đầy thách thức, theo tôi cần tiếp tục thúc đẩy phát triển khu vực tư nhân và nâng cao năng suất“, ông Andrea Coppola nói.

Chuyên gia dự báo nhu cầu xuất khẩu đối với hàng Việt Nam từ phần còn lại của thế giới sẽ phục hồi vào năm 2024 nhưng có thể sẽ không mạnh như trước và tình hình đầy thách thức này có thể kéo dài trong một thời gian tới.

Trong bối cảnh đó, thông điệp của tôi dành cho Việt Nam là tận dụng sức mạnh nội tại và thúc đẩy tăng năng suất của nền kinh tế trong nước để biến những thách thức do suy thoái kinh tế toàn cầu gây ra thành cơ hội củng cố hơn nữa mô hình tăng trưởng kinh tế của mình.

Việt Nam được đánh giá là điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế nhờ sự ổn định về kinh tế, chính trị và khả năng hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Điều quan trọng đối với Việt Nam là tiếp tục củng cố môi trường kinh doanh và thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư tư nhân để tận dụng tối đa tác động của diễn biến địa chính trị toàn cầu đối với đầu tư và thương mại quốc tế“, ông nêu quan điểm.

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2023 ước tính tăng 5,05% so với năm trước. GDP quý IV ước tăng 6,72% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn quý IV các năm 2012-2013 và 2020-2022. Xu hướng tích cực được duy trì, quý sau cao hơn quý trước (quý I tăng 3,41%, quý II tăng 4,25%, quý III tăng 5,47%).

Nguồn:VTC NEWS | Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA|Liên kết

Các trường đại học ở Việt Nam đầu tiên cung cấp chuyên ngành về IC, thiết kế bán dẫn

Nhiều trường đại học ở Việt Nam đã công bố kế hoạch tuyển sinh và đào tạo sinh viên trong lĩnh vực vi mạch tích hợp (IC) và thiết kế bán dẫn trong năm tới.

Trình độ kỹ sư vi mạch Việt Nam ở đâu trên bản đồ thế giới? - 19.11.2023, Sputnik Việt Nam

Cụ thể, Trường đại học Bách khoa, Trường đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt – Hàn và Trường đại học Sư phạm Kỹ thuật (thuộc Đại học Đà Nẵng) sẽ tuyển sinh gần 200 chỉ tiêu cho chuyên ngành đào tạo thiết kế vi mạch trong năm 2024.

PGS.TS Nguyễn Hồng Hải – phó hiệu trưởng Trường đại học Bách khoa (Đại học Đà Nẵng) – cho biết từ năm 2024, trường sẽ mở thêm chuyên ngành vi điện tử để cung cấp nguồn nhân lực chuyên sâu về lĩnh vực vi mạch bán dẫn. Năm nay trường sẽ tuyển sinh hơn 3.500 chỉ tiêu, riêng chuyên ngành vi điện tử dự kiến tuyển khoảng 100 chỉ tiêu. Ngành này chủ yếu ưu tiên xét kết quả thi tốt nghiệp THPT và tuyển sinh riêng.

Tại Trường đại học Sư phạm Kỹ thuật (Đại học Đà Nẵng), PGS.TS Phan Cao Thọ – hiệu trưởng – cho hay nhà trường đang triển khai xây dựng đề án tuyển sinh cho chuyên ngành thiết kế vi mạch bán dẫn, khóa tuyển sinh đầu tiên sẽ được thực hiện trong năm 2024 với khoảng 50 sinh viên.

Đại diện Trường đại học Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt – Hàn (Đại học Đà Nẵng) cũng thông tin trường sẽ tuyển sinh 1.500 chỉ tiêu trong năm nay. Trong đó, chuyên ngành thiết kế vi mạch bán dẫn được mở mới sẽ tuyển sinh 40 chỉ tiêu.

Việt Nam đã trở thành điểm sáng trong việc thu hút FDI, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất chíp bán dẫn. Gần đây, Hiệp hội Công nghiệp bán dẫn Hoa Kỳ cùng nhiều doanh nghiệp Hoa Kỳ đã đến Việt Nam để khám phá môi trường đầu tư và thực hiện khảo sát về nhiều địa điểm phù hợp cho việc sản xuất chip bán dẫn.

Theo các chuyên gia, với sự hợp tác của các doanh nghiệp công nghệ Hoa Kỳ, Việt Nam sẽ có khả năng sản xuất chíp bán dẫn quy mô lớn vào năm 2024.

Nguồn: VIETNAMNET GLOBAL | Liên kết 

Tham khảo dịch vụ SIA tại đây

Thu nhập của người lao động Việt Nam đạt 7 triệu đồng hàng tháng, tăng gần 7%

Nền kinh tế Việt Nam năm 2023 với tỷ suất tăng trưởng vừa đạt 5%, vừa mới đủ đạt mức tối thiểu theo thống kê chính thức. Mức thu nhập trung bình hàng tháng của người lao động đạt khoảng 7 triệu VND (tương đương 8,860 Đài tệ), tăng thêm 459,000 VND so với năm 2022, tăng trưởng 6.9%.

Tăng mức lương cơ sở lên 1,8 triệu đồng/tháng từ ngày 01/7/2023

Trang tin tức trực tuyến VnExpress đưa tin rằng đến cuối năm 2023, thu nhập trung bình hàng tháng của người lao động Việt Nam là khoảng 7 triệu VND. Cơ quan thống kê Việt Nam (GSO) cho biết, thu nhập trung bình hàng tháng của người lao động nam là 8.1 triệu VND, trong khi người lao động nữ là 6 triệu VND.

Tuy nền kinh tế Việt Nam năm 2023 vẫn giữ được tỷ suất tăng trưởng ổn định ở mức tối thiểu là 5%, nhưng đã không đạt được mục tiêu tăng trưởng là 6.5% mà chính phủ đề ra, và chỉ có sự hồi phục đôi chút trong quý 4 của năm đó. Phản ánh về mặt thu nhập của người lao động, tổng thể nói chung, trong quý 4 năm 2023, thu nhập trung bình của công nhân ở mỗi khu vực kinh tế đều có sự tăng lên.

Bản tin nêu rõ rằng trong quý 4 năm 2023, thu nhập trung bình hàng tháng của người lao động tại Việt Nam đạt 7.3 triệu VND, tăng thêm 180,000 VND so với quý trước, tăng trưởng 2.5%, gần gấp đôi so với mức tăng 1.4% trong quý 4 năm 2022. Phân tích cho biết rằng doanh nghiệp đã tăng tốc sản xuất trong những tháng cuối cùng của năm 2023, làm cho thu nhập của người lao động tăng lên.

Mức tăng trưởng thu nhập của người lao động nhanh nhất ở Thủ đô Hà Nội, với mức lương trung bình hàng tháng là 8.7 triệu VND, tăng thêm 3.5%.

Trái lại, thu nhập của người lao động ở miền Đông Nam Bộ tăng trưởng chậm nhất, với tỷ lệ tăng 2.3% so với năm trước, mức thu nhập trung bình hàng tháng là 9 triệu VND. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế, thu nhập lao động chỉ tăng 1.9%, đạt mức trung bình 9.4 triệu VND.

Tuy nhiên, với việc nhiều doanh nghiệp nhận đơn đặt hàng, mở rộng sản xuất, cần tuyển dụng hàng nghìn lao động, tỷ lệ thất nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh đã giảm xuống 2.91% trong năm 2023.

Toàn quốc Việt Nam năm 2023 có khoảng 51.3 triệu người lao động, tăng thêm 683,000 người so với năm 2022.

Nguồn: Yahoo 新聞 | Liên kết 

Tham khảo dịch vụ của SIA | Liên kết

Thị trường bán dẫn toàn cầu dự kiến tăng trưởng mạnh trong năm 2024

Theo dự báo, sản phẩm chip nhớ sẽ dẫn đầu mức tăng trưởng chung của thị trường trong năm 2024, với doanh số dự kiến tăng 44,8% so với năm 2023.

Chip do công ty SK hynix nghiên cứu sản xuất được giới thiệu tại Santa Clara, California (Mỹ), ngày 8/8/2023. (Ảnh: Yonhap/TTXVN)

Chip do công ty SK hynix nghiên cứu sản xuất được giới thiệu tại Santa Clara, California (Mỹ), ngày 8/8/2023.

Thị trường bán dẫn toàn cầu dự kiến tăng trưởng 13,1% trong năm 2024, đạt trị giá kỷ lục 588,36 tỷ USD, sau sự suy giảm trong năm 2023, nhờ nhu cầu ngày càng tăng đối với sản phẩm chip sử dụng trong Trí tuệ Nhân tạo (AI).

Tổ chức Thống kê Thương mại Sản phẩm Bán dẫn trên Thế giới – một tổ chức do các nhà sản xuất chip lớn thành lập – đưa ra dự báo trên. Tổ chức này đã điều chỉnh nâng mức dự báo so với mức dự báo tăng trưởng 11,8% đưa ra hồi tháng Sáu vừa qua.

Nếu đạt được mức tăng trưởng nói trên, quy mô thị trường bán dẫn tính theo đơn hàng sẽ vượt mức kỷ lục 574,08 tỷ USD ghi nhận năm 2022. Thị trường này trong năm 2023 dự kiến giảm 9,4%, xuống còn 520,3 tỷ USD do nhu cầu về chip nhớ suy giảm.

Dự báo cho thấy triển vọng lạc quan trên thị trường bán dẫn khi ngành này ghi nhận dấu hiệu phục hồi do nhu cầu ứng dụng AI tạo sinh sau khi OpenAI cho ra mắt công cụ chatbot ChatGPT và sự cải thiện về doanh số bán máy tính cá nhân và điện thoại thông minh.

Xét sản phẩm, chip nhớ sẽ dẫn đầu mức tăng trưởng chung của thị trường trong năm 2024, với doanh số dự kiến tăng 44,8% so với năm 2023.

Thị trường chip logic cũng được dự báo ghi nhận mức tăng trưởng 9,6%, trong khi thị trường chip cảm biến hình ảnh dự kiến sẽ tăng 1,7%.

Xét theo khu vực, châu Mỹ dự kiến tăng trưởng mạnh nhất với mức 22,3% trong năm tới. Thị trường châu Á-Thái Bình Dương, nơi có nhiều công ty đặt cơ sở sản xuất điện thoại thông minh và máy tính cá nhân, sẽ tăng trưởng 12%.

Tại Nhật Bản, thị trường bán dẫn được dự báo tăng trưởng ở mức khiêm tốn 4,4% do không được hưởng lợi nhiều từ sự hồi phục mạnh mẽ nhu cầu chip nhớ khi doanh số bán sản phẩm này ở mức thấp./.

Nguồn:Vietnam + | Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA | Liên kết

Triển vọng kinh tế Việt Nam 2024

3 kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2024

Năm 2023: Những điểm sáng

Nhiều dự báo cho thấy tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2023 chỉ đạt trên 5%. Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) dự báo GDP năm 2023 của Việt Nam khoảng 5,19%. Mới đây, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) đưa ra mức 5,2%, giảm đáng kể so với dự báo trước đó là 5,8%. Đáng lưu ý, mức dự báo 5,2% này của Việt Nam tương đương với dự báo tăng trưởng trong năm nay của Trung Quốc – nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Năm 2023 được nhận định là một năm cực kỳ khó khăn, song nhiều “điểm sáng” của nền kinh tế được ghi nhận. Theo đánh giá của CIEM, một số chỉ báo kinh tế vĩ mô đang theo chiều hướng tích cực, tăng trưởng GDP có xu hướng tốt lên, quý sau cao hơn quý trước. Tăng trưởng GDP quý IV/2023 ước đạt 7,72%, quý III/2023 là 5,23%, quý II/2023 là 4,05% và quý I/2023 là 3,28%.

Theo TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, Thành viên Hội đồng tư vấn Chính sách Tài chính – Tiền tệ Quốc gia, Việt Nam không thể tránh được những tác động từ tình hình khó khăn của kinh tế thế giới, nhưng những tín hiệu phục hồi của nền kinh tế hiện khá rõ nét. Nền kinh tế có nhiều động lực cho tăng trưởng cả năm 2023 và 2024, như: Sự dịch chuyển chuỗi cung ứng và dòng vốn đầu tư toàn cầu; Thị trường Trung Quốc mở cửa trở lại; Dịch vụ, tiêu dùng tăng khá; Đầu tư công được đẩy mạnh, rủi ro tài khóa ở mức trung bình, dư địa chính sách vẫn còn; Lạm phát và lãi suất đang giảm, tỷ giá cơ bản ổn định, rủi ro nợ xấu trong tầm kiểm soát…

TS. Cấn Văn Lực chia sẻ, tăng trưởng GDP của Việt Nam 2023 dù thấp hơn so với chỉ tiêu 6 – 6,5% nhưng vẫn ở mức tăng trưởng gần như cao nhất trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt từ tháng 6 kinh tế đã có những dấu hiệu phục hồi rõ nét. Phân tích những chỉ số cụ thể của nền kinh tế như xuất khẩu, chỉ số sản xuất công nghiệp…, TS. Cấn Văn Lực nhận định kinh tế đang tốt lên. “Rõ ràng chúng ta đã phục hồi và đang lấy lại đà tăng trưởng tích cực” – ông quả quyết.

Đặc biệt, trong ba dòng vốn đầu tư chính của nền kinh tế, tuy đầu tư tư nhân chưa như kỳ vọng, nhưng đầu tư công đang triển khai rất tốt, giải ngân vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng trưởng. Cùng với đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản tuy chưa được như mong muốn nhưng đang chuyển biến tích cực.

Ngoài ra, một “điểm sáng” quan trọng là thể chế đang có nhiều thay đổi tích cực, rất nhiều luật quan trọng đã được Quốc hội thông qua và chuẩn bị thông qua, như: Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Giao dịch điện tử, Luật Các tổ chức tín dụng…

Bên cạnh đó, toàn bộ các chính sách (giãn, hoãn, giảm thuế, phí…) mà Chính phủ ban hành trong thời gian vừa qua nhằm hỗ trợ cho các thị trường, như thị trường vốn, đất đai, bất động sản, du lịch…, có thể nói là chưa từng có. Đáng chú ý, hầu hết các chính sách áp dụng từ thời kỳ dịch COVID-19 đến nay được giữ nguyên.

Đặc biệt, TS. Lực nhấn mạnh công tác ngoại giao nói chung và ngoại giao kinh tế nói riêng năm vừa qua đã rất thành công.

Kịch bản nào cho năm 2024?

Tại Diễn đàn Nhịp đập Kinh tế Việt Nam 2023 do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và CIEM phối hợp tổ chức mới đây, CIEM đã công bố cập nhật 3 kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2024. Theo đó, kịch bản thấp GDP tăng trưởng 5,5%, kịch bản cơ sở GDP tăng 6% và kịch bản cao GDP tăng trưởng 6,5%.

Dự báo này tương đối sát với dự báo gần nhất của một số định chế tài chính quốc tế như WB dự báo 5,5% (tháng 8/2023); IMF dự báo 5,8% (tháng 10/2023); ADB dự báo 6% (tháng 9 và tháng 12/2023).

Mới đây, tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 103/2023/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội năm 2024, với chỉ tiêu tăng trưởng GDP năm 2024 là 6 – 6,5%.

Năm 2024 được nhận định vẫn là năm không dễ dàng với kinh tế Việt Nam, bởi những khó khăn trong nội tại nền kinh tế của năm 2023 vẫn còn kéo dài đến năm 2024. Trong khi đó, tình hình địa chính trị thế giới vẫn diễn biến phức tạp và khó lường, tăng trưởng kinh tế thế giới vẫn được dự báo giảm nhẹ, trong đó có nhiều nước đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Cùng với đó, lạm phát được dự báo vẫn ở mức cao, thậm chí có thể cao hơn năm 2023, do đó việc điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam sẽ khó khăn, và đòi hỏi sự linh hoạt hơn…

Tuy nhiên, điểm tích cực là kinh tế tăng trưởng ổn định trong thời gian dài tạo đà và lực cho phục hồi thuận lợi hơn. Vị thế chính trị và thương mại của Việt Nam ngày càng được quốc tế chú trọng hơn (nâng cấp quan hệ với Mỹ, Nhật; một số hiệp định thương mại tự do mới phát huy hiệu lực…). Nhà nước chú trọng hỗ trợ phục hồi kinh tế, một số chính sách hỗ trợ đã được Quốc hội đồng ý kéo dài sang 2024.

Trong các kịch bản kinh tế, CIEM dự báo, GDP năm 2024 có thể tăng trưởng tương ứng với kịch bản cơ sở nhất (6%). Để đạt được mức tăng trưởng đó, nhóm nghiên cứu của CIEM đề xuất tập trung vào một số giải pháp, gồm: Tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, trong đó đặc biệt tập trung nhiều hơn cho các động lực tăng trưởng kinh tế; Tiếp tục cải thiện thể chế và môi trường kinh doanh; Hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất; Tăng cường hỗ trợ cho các chủ thể sản xuất kinh doanh và thúc đẩy phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ…

Đâu là động lực tăng trưởng?

Theo Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, bà Ramla Khalidi, để nền kinh tế Việt Nam có thể hồi phục mạnh mẽ trong năm 2024, Việt Nam cần phải linh hoạt các giải pháp để giải quyết được những khó khăn, thách thức hiện hữu.

“Trên thực tế, quá trình đổi mới, sáng tạo, chuyển dịch năng lượng… đang mang đến những cơ hội mới để Việt Nam có thể thâm nhập vào những thị trường mới, gia tăng giá trị và hàm lượng hàng hóa, thúc đẩy xuất khẩu… Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể tăng cường thu hút đầu tư, tận dụng những công nghệ tiên tiến như công nghệ bán dẫn, trí tuệ nhân tạo… nhằm mục đích khai thác hiệu quả các cơ hội này để phát triển ở mức cao hơn, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình” – Chuyên gia UNDP gợi ý.

Chuyên gia kinh tế Nguyễn Xuân Thành – giảng viên Đại học Fulbright Việt Nam cho rằng, động lực đầu tiên để nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng trong tháng cuối năm 2023 và năm 2024 chính là xuất khẩu. Cũng theo ông, Việt Nam có thể đạt được mức tăng trưởng xuất khẩu từ 5 – 7% nhờ vào việc xuất khẩu sang thị trường Mỹ hồi phục.

TS. Cấn Văn Lực nhận định, tăng trưởng kinh tế năm 2024, thế giới có thể đi ngang hoặc giảm nhẹ nhưng Việt Nam dự kiến phục hồi ở mức 6 – 6,5%, lạm phát hoàn toàn trong tầm kiểm soát khoảng 3,5 – 4%. “Để bảo đảm mức tăng trưởng này, những cơ chế, chính sách về tài khóa từ năm 2023 nên tiếp tục áp dụng. Các chính sách tiền tệ, như giảm lãi suất, cơ cấu lại nợ cũng cần kéo dài thực hiện đến hết năm…Với các doanh nghiệp, phải đẩy mạnh cơ cấu lại, đa dạng hóa nguồn vốn, nâng cao tính thích ứng và nhất là nhanh chóng chuyển đổi theo hướng xanh hóa và số hóa” – Chuyên gia đề xuất.

“Mục tiêu tăng trưởng 6 – 6,5% trong năm 2024 là tương đối thách thức trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, nhiều điều kiện và chuyển biến trong những tháng cuối năm 2023 ủng hộ cho triển vọng tăng trưởng trong năm 2024” – TS. Lê Duy Bình – Giám đốc Economica Việt Nam khẳng định.

Nguồn: Phap Luat Viet Nam | Liên kết 

Tham khảo dịch vụ của SIA | Liên kết 

Công bố của Việt Nam về Luật và Quy định về cơ chế giá mua điện tái tạo

Chính phủ Việt Nam đã công bố Nghị định số 19/2023/TT-BCT vào ngày 1 tháng 11 năm 2023, thiết lập cơ chế giá mua điện tái tạo, chính thức có hiệu lực từ ngày 19 tháng 12 năm 2023 và sẽ được công bố hàng năm. Các loại năng lượng áp dụng cho giá bao gồm: điện mặt trời mặt đất, điện gió nổi, điện gió trong đất liền và điện gió ngoài khơi; trong đó, giá điện mặt trời sẽ thay đổi tùy thuộc vào khu vực, bao gồm Bắc, Trung và Nam. Các dự án năng lượng mặt trời đã đi vào hoạt động trước ngày 1 tháng 1 năm 2021 và dự án điện gió hoạt động trước ngày 1 tháng 11 năm 2021 sẽ không bị ràng buộc bởi cơ chế giá mới.

EVN từ chối đàm phán mua điện tái tạo chuyển tiếp

Tóm tắt tình hình trước đó:

Bộ Công Thương Việt Nam đã công bố mức giá mua điện tái tạo từ năng lượng mặt trời là 9.35 cent Mỹ/ kWh, tương đương khoảng 2.86 đồng/kWh, áp dụng cho các dự án hoàn thành trước ngày 31 tháng 12 năm 2020. Mức giá mua điện tái tạo từ năng lượng gió được công bố vào năm 2018 (gió đất liền: 8.5 cent Mỹ/kWh, tương đương khoảng 2.4 đồng/kWh; gió ngoài khơi: 9.8 cent Mỹ/kWh, tương đương khoảng 2.7 đồng/kWh), áp dụng cho các trạm gió hoàn thành trước ngày 31 tháng 10 năm 2021, cũng như cho những dự án chuyển giao chưa kịp hoàn thành trước các hạn chót nêu trên.

Giá điện sản xuất (VND/kWh) = Giá trung bình cố định (VND/kWh) + Chi phí quản lý và vận hành cố định (VND/kWh)

Trong đó, cách tính giá trung bình cố định như sau:

Giá trung bình cố định = Vốn đầu tư điều chỉnh hàng năm cho xây dựng (không bao gồm VAT) / Số điện được giao trong nhiều năm trung bình (kWh)

Cách tính chi phí quản lý và vận hành cố định như sau:

Chi phí quản lý và vận hành cố định = Tổng chi phí quản lý và vận hành cố định (VND) / Số điện được giao trong nhiều năm trung bình (kWh)

Các tham số khác bao gồm tuổi thọ vận hành của nhà máy điện (20 năm), tỷ lệ nợ ngoại tệ và đồng Việt Nam (80/20), tỷ lệ nợ và vốn cổ phần (70/30) cùng với thời hạn trung bình trả nợ (10 năm) và những yếu tố khác.

Việc đánh giá “Công trình điện mặt trời và điện gió tiêu chuẩn” sẽ được EVN chịu trách nhiệm thực hiện trước ngày 1 tháng 11 hàng năm, để làm cơ sở cho việc tính toán giá cước, và sau đó nộp các tính toán liên quan đến Cơ quan Quản lý Điện lực Việt Nam (ERAV), và được ERAB chấp thuận và công bố.

Theo báo cáo tiếng Anh liên quan, giá cước này không áp dụng cho toàn bộ chu kỳ hoạt động (như là 20 năm), mà là áp dụng giá cước khác nhau mỗi năm, điều này sẽ tăng sự không chắc chắn trong đầu tư phát triển. Hơn nữa, giá cước năng lượng mặt trời phụ thuộc vào khu vực và sẽ ảnh hưởng đến mục tiêu đầu tư của các doanh nghiệp; cuối cùng, trong giá mua điện cũng không có cơ chế điều chỉnh giá dựa trên biến động tỷ giá.

Nguồn: Vocus | Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA | Liên kết

10 dấu ấn nổi bật trong phát triển kinh tế-xã hội năm 2023

1. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng kinh tế toàn cầu

Kinh tế – xã hội tiếp tục xu hướng phục hồi, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau cao hơn quý trước, cơ bản đạt được mục tiêu tổng quát đề ra và đạt nhiều kết quả quan trọng trên các lĩnh vực; tiếp tục là điểm sáng của kinh tế toàn cầu; đạt và vượt 10/15 chỉ tiêu.

Năm 2023, Việt Nam được nhiều tổ chức quốc tế ghi nhận là quốc gia đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; lạm phát thấp hơn mục tiêu Quốc hội đề ra; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát; tăng trưởng được thúc đẩy; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Tăng trưởng GDP cả năm khoảng 5%, là nỗ lực rất lớn trong bối cảnh tình hình chung toàn cầu rất khó khăn, giúp nền kinh tế nước ta vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới. Khu vực nông nghiệp là điểm sáng và tiếp tục là trụ đỡ vững chắc của nền kinh tế trong khó khăn; khu vực dịch vụ phát triển khá sôi động, khu vực công nghiệp và xây dựng từng bước phục hồi.

Nhiều tổ chức quốc tế có uy tín đánh giá cao kết quả và triển vọng của nền kinh tế nước ta và dự báo Việt Nam sẽ phục hồi nhanh trong thời gian tới. Fitch Ratings đã nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam lên mức BB+ (từ mức BB), với triển vọng “Ổn định”. Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam đạt 431 tỷ USD, tăng 1 bậc lên thứ 32/100 thương hiệu quốc gia mạnh trên thế giới.

2. Đối ngoại, hội nhập đạt những thành tựu lịch sử

Việt Nam tổ chức đón, tiếp thành công Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình 
Việt Nam tổ chức đón, tiếp thành công Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden

Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai sôi động, bài bản, liên tục, thành công toàn diện và là điểm sáng nổi bật của năm 2023, với sự kết hợp nhịp nhàng, chặt chẽ, hiệu quả của đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại Nhân dân.

Nhiều thành tựu đối ngoại quan trọng có tính lịch sử, tạo thời cơ, vận hội mới để phát triển đất nước; nổi bật là công tác chuẩn bị và tổ chức đón, tiếp thành công các chuyến thăm chính thức cấp nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden. Một loạt chuyến thăm và làm việc ở nước ngoài của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã làm sâu sắc thêm quan hệ tốt đẹp với nhiều đối tác quan trọng. Hình ảnh, tầm vóc, uy tín và vị thế Việt Nam được nâng lên tầm cao mới.

Đến nay, nước ta đã có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với tất cả 05 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và nhiều nước G20; góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế; duy trì được môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

3. Chuyển biến vượt bậc trong phát triển hệ thống đường cao tốc

Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, đã hoàn thành, đưa vào sử dụng 729 km đường bộ cao tốc, nâng tổng số km đường cao tốc đưa vào khai thác đến nay là 1.892 km

Việc thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông, có sự chuyển biến vượt bậc, đặc biệt là hệ thống đường bộ cao tốc.

Năm 2023 là năm có nhiều dự án cao tốc hoàn thành và khởi công mới nhất trong hơn một thập kỷ qua. Từ đầu nhiệm kỳ đến nay, đã hoàn thành, đưa vào sử dụng 729 km đường bộ cao tốc, nâng tổng số km đường cao tốc đưa vào khai thác đến nay là 1.892 km, đồng thời đang thi công khoảng 1.700 km cao tốc, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mục tiêu cả nước có khoảng 3.000 km đường cao tốc vào năm 2025, 5.000 km cao tốc vào năm 2030.

Về hàng không, hoàn thành đưa vào khai thác Nhà ga hành khách T2, cảng hàng không Phú Bài, Điện Biên; xử lý quyết liệt, dứt điểm vướng mắc để khởi công nhà ga hành khách T3 – Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành… bảo đảm chất lượng, tiến độ yêu cầu.

4. Xây dựng, hoàn thiện thể chế được chú trọng xứng tầm đột phá chiến lược

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 12/2023

Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách được chú trọng xứng tầm đột phá chiến lược với nhiều đổi mới trong chỉ đạo, cách làm. Chính phủ đã nhận được sự chia sẻ, đồng hành, phối hợp chặt chẽ Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Trong năm 2023, Quốc hội đã thông qua 16 luật, 29 Nghị quyết và cho ý kiến 18 dự án luật. Chính phủ đã tổ chức 10 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật, cho ý kiến đối với 47 nội dung, tập trung hoàn thiện, trình Quốc hội dự án Luật Đất đai (sửa đổi). Chính phủ ban hành 86 nghị định, Thủ tướng Chính phủ ban hành 29 quyết định quy phạm. Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước được triển khai quyết liệt, có hiệu quả; trong đó tập trung cắt giảm, đơn giản hóa, phân cấp giải quyết thủ tục hành chính. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy; chấn chỉnh tình trạng cán bộ, công chức đùn đẩy, sợ trách nhiệm, sợ sai trong thực thi công vụ, đã ban hành Nghị định của Chính phủ về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Công tác quy hoạch được đẩy nhanh, 108/111 quy hoạch đã hoàn thành việc lập, thẩm định, phê duyệt, chất lượng được nâng lên; đã ban hành Quy hoạch tổng thể quốc gia và nhiều quy hoạch ngành, lĩnh vực, tỉnh.

5. Xuất khẩu nông sản lập đỉnh, mở rộng thêm các thị trường mới

Trong bối cảnh thị trường gặp nhiều khó khăn, song tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn ước đạt 683 tỷ USD, xuất siêu khoảng 26 tỷ USD, trong đó xuất khẩu nông sản, nhất là các mặt hàng rau quả và gạo lập đỉnh mới với nhiều con số kỷ lục.

Cụ thể, nhóm nông sản đạt 24,3 tỷ USD, tăng 17% so với năm ngoái. Có 6 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu hơn 3 tỷ USD gồm cà phê, gạo, rau quả, hạt điều, thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ.

Xuất khẩu rau quả đạt 5,6 tỷ USD, mức cao kỷ lục và vượt xa kỳ vọng ban đầu “cả năm 4 tỷ USD”. Trong 11 tháng, xuất khẩu gạo của Việt Nam cũng lập kỷ lục với hơn 7,7 triệu tấn gạo cho giá trị hơn 4,4 tỷ USD, tăng hơn 36% so với năm ngoái. Hạt gạo Việt đã vượt qua các đối thủ để giành vị trí số 1 cuộc thi gạo ngon nhất thế giới.

Với việc ký kết Hiệp định thương mại tự do song phương (VIFTA) với Israel, đến nay, Việt Nam đã ký và tham gia 16 FTA, đang tiếp tục đàm phán 3 FTA nữa là Việt Nam-EFTA (Thụy Sĩ, Na Uy, Iceland, Liechtenstein), ASEAN-Canada, và Việt Nam-UAE.

6. Kỷ lục trong giải ngân vốn FDI và thành lập doanh nghiệp mới

 

Tính đến ngày 20/12/2023, tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam (FDI) đạt gần 36,61 tỷ USD, tăng 32,1% so với cùng kỳ, là năm cao thứ ba trong giai đoạn 2008 đến nay. Vốn thực hiện của dự án đầu tư nước ngoài ước đạt khoảng 23,18 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm 2022, là mức giải ngân đạt kỷ lục từ trước tới nay trong bối cảnh thương mại đầu tư toàn cầu bị thu hẹp. Xếp hạng môi trường kinh doanh Việt Nam cũng tăng 12 bậc trên toàn cầu.

Hoạt động đăng ký kinh doanh năm 2023 rất ấn tượng với kỷ lục gần 160.000 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 7,2% so với năm 2022, gấp 1,2 lần mức bình quân giai đoạn 2017-2022 và tăng 4,6% so với ước thực hiện cả năm 2023.

Số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong năm 2023 cũng đạt hơn 58.400. Như vậy, số doanh nghiệp gia nhập và quay lại thị trường tiếp tục ở mốc hơn 200.000, tăng 4,5% so với cùng kỳ năm 2022 và gấp 1,3 lần số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường trong năm.

7. Quyết liệt thúc đẩy những ngành, lĩnh vực mới nổi

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu cắt băng khánh thành Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia. NIC cơ sở Hòa Lạc với thiết kế hình cánh chim đại bàng cất cánh, là biểu tượng cho sứ mệnh hiện thực hóa ý tưởng sáng tạo, thúc đẩy doanh nghiệp đổi mới sáng tạo phát triển vươn xa

Năm 2023 ghi những dấu ấn mới trong cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển những ngành, lĩnh vực mới nổi, thúc đẩy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế tri thức, kinh tế chia sẻ.

Chuyển đổi số quốc gia được tích cực thúc đẩy, ước cả năm 2023 tỷ trọng kinh tế số đạt khoảng 15% GDP. Đề án phát triển, ứng dụng dữ liệu dân cư, định danh và xác thực điện tử (Đề án 06) được chỉ đạo và thực hiện quyết liệt với quyết tâm cao và đạt nhiều kết quả ấn tượng, góp phần hạn chế tiêu cực, tiết kiệm thời gian, công sức cho người dân, doanh nghiệp, là một “điểm sáng” trong chuyển đổi số ở nước ta.

Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia phát triển mạnh; khánh thành Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC); tập trung xây dựng, hoàn thiện 03 Trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo quốc gia tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam xếp hạng 46/132, tăng 02 bậc so với năm 2022.

Năm 2023 cũng đánh dấu bước nhảy vọt của Việt Nam trong lĩnh vực bán dẫn với hàng loạt thỏa thuận, dự án hợp tác phát triển với các đối tác hàng đầu, những tập đoàn, doanh nghiệp khổng lồ trên thế giới.

Việt Nam triển khai quyết liệt các chương trình hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, giảm phát thải, chuyển đổi năng lượng theo tuyên bố chính trị về chuyển dịch năng lượng công bằng (JETP), lần đầu tiên bán tín chỉ carbon và phát hành trái phiếu xanh, thể hiện trách nhiệm cùng cộng đồng quốc tế đưa phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

8. Dấu ấn tháo gỡ khó khăn, khơi thông nguồn lực

Đầu tư công được cơ cấu lại theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho các dự án có tính lan tỏa cao, tạo động lực phát triển

Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung rà soát, phát hiện, xử lý kịp thời những bất cập, khó khăn, vướng mắc, cả về quy định pháp luật, cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện, khơi thông nguồn lực, hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm, sinh kế cho người dân, bảo đảm đời sống cho người lao động.

Ước giải ngân đầu tư công cả năm khoảng 667,882 nghìn tỷ đồng, đạt 94,3% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, cao hơn cùng kỳ năm 2022 khoảng 2,88% (91,42%), về số tuyệt đối cao hơn khoảng 137,6 nghìn tỷ đồng. Đầu tư công được cơ cấu lại theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, tập trung cho các dự án có tính lan tỏa cao, tạo động lực phát triển.

Chính phủ quyết liệt xử lý, tháo gỡ những khó khăn, hạn chế, bất cập, phát triển các loại thị trường đồng bộ, an toàn, lành mạnh, bền vững và hội nhập; việc ổn định và phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường bất động sản khởi sắc tích cực hơn. Tiếp tục xử lý nợ xấu, cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, nhất là 05 ngân hàng yếu kém.

Tập trung cơ cấu lại, nâng cao, cải thiện hiệu quả hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước; tiếp tục xử lý hiệu quả bước đầu 8/12 dự án, doanh nghiệp thua lỗ đã kéo dài nhiều năm; hoàn thành và đưa vào vận hành nhiều dự án điện lớn, quan trọng sau thời gian dài gián đoạn.

9. Đạt và vượt toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch về xã hội

Việc tổ chức kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương về Văn hóa Việt Nam và Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam lần đầu tiên được tổ chức, là những sự kiện quan trọng để tiếp tục cụ thể hóa, triển khai chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Đảng Nhà nước về phát triển văn hóa, đặc biệt là những chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội tiếp tục được quan tâm đầu tư phát triển, đạt kết quả rõ nét hơn. Toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch về xã hội đều đạt và vượt mục tiêu đề ra, thể hiện rõ bản chất tốt đẹp của chế độ ta, không hy sinh tiến bộ, công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.

Trước khó khăn của nền kinh tế, Quốc hội, Chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách miễn, giảm, gia hạn các loại thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất. Tổng trị giá của các chính sách này khoảng gần 200 nghìn tỷ đồng và tính đến tháng 11, đã miễn, giảm, gia hạn trên 172 nghìn tỷ đồng (trong đó miễn, giảm khoảng 65 nghìn tỷ đồng). Tăng thu, tiết kiệm chi, trích lập quỹ tiền lương (đến nay được khoảng 560 nghìn tỷ đồng), bảo đảm đủ nguồn để cải cách tiền lương trong 3 năm 2024 – 2026.

Công tác bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo cho đời sống người lao động, nhất là các nhóm yếu thế, đối tượng chính sách tiếp tục được đẩy mạnh. Đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện, thu nhập bình quân của người lao động tăng 6,8%; trên 94% số hộ gia đình đánh giá có thu nhập ổn định hoặc cao hơn cùng kỳ năm 2022. Theo Báo cáo Hạnh phúc thế giới vào tháng 3/2023 của Liên Hợp Quốc, Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng 12 bậc, từ vị trí 77 lên vị trí 65 trong bảng xếp hạng toàn cầu.

Việc tổ chức kỷ niệm 80 năm ra đời Đề cương về Văn hóa Việt Nam và Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam lần đầu tiên được tổ chức, là những sự kiện quan trọng để tiếp tục cụ thể hóa, triển khai chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Đảng Nhà nước về phát triển văn hóa, đặc biệt là những chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021.

10. Đẩy mạnh và tăng cường công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực

Công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được đẩy mạnh, khẳng định đây là xu thế tất yếu, không thể đảo ngược được, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước. Có nhiều bước tiến mới trong điều tra, khám phá, xét xử nhiều vụ án lớn; đã khởi tố mới, điều tra nhiều vụ án tham nhũng, tiêu cực đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội rất quan tâm xảy ra trong những lĩnh vực chuyên môn sâu, hoạt động khép kín, có sự đan xen giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước mà từ trước tới nay chưa xử lý được, như: Tiếp tục điều tra mở rộng giai đoạn 2 vụ án liên quan đến Công ty Việt Á; vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao); các vụ án xảy ra tại Tập đoàn FLC; Tân Hoàng Minh như: vụ án xảy ra tại Ngân hàng SCB, Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Công ty An Đông…; xử lý nhiều bị can là cán bộ cấp cao, cả đương chức và nghỉ hưu theo tinh thần “Không có vùng cấm, không có ngoại lệ, dù bất kể đó là ai”

Nguồn:Chinh phu |Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA|Liên kết

 

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới

Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài được Quốc hội thông qua vào năm 1987, dòng vốn FDI đã không ngừng chảy vào Việt Nam. Trong hơn 35 năm, Việt Nam đã tạo dựng vị thế và trở thành điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư trên khắp thế giới.

Ảnh internet.

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ thế giới

Từ con số 2 triệu USD năm 1988, vốn FDI “đổ” vào Việt Nam đã lên đến 524 tỷ USD ghi nhận cuối năm 2022. Với hơn 36.000 dự án FDI đang hoạt động, Việt Nam đã chứng tỏ được khả năng trong thu hút và quản lý đầu tư nước ngoài.

Nguồn vốn FDI dồi dào mang đến cho Việt Nam một hình ảnh mới trên “bản đồ” thương mại. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp FDI không những là mắt xích quan trọng, mà còn tạo đòn bẩy để Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, điều này được thể hiện khi khu vực FDI luôn là đầu tàu dẫn dắt xuất khẩu của Việt Nam.

Tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng nhanh chóng, từ mức 30% vào năm 1997 – khi Việt Nam gia nhập ASEAN lên 65% giai đoạn 2011-2015, khoảng 71% giai đoạn 2016-2020 (theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư).

Thêm vào đó, thống kê của Tổng cục Hải quan cho thấy, tổng trị giá xuất nhập khẩu của doanh nghiệp FDI trong năm 2022 đạt 506,83 tỷ USD, tăng 9,3% so với năm 2021. Trong đó, xuất khẩu hàng hóa của khối doanh nghiệp FDI đạt 273,63 tỷ USD, tăng 11,6% so với năm 2021 và chiếm 73,7% tổng trị giá xuất khẩu của cả nước.

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới. Ảnh internet.

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ thế giới

Trị giá nhập khẩu của khối doanh nghiệp FDI trong năm 2022 đạt 233,2 tỷ USD, tăng 6,7% so với năm 2021, chiếm 65% tổng trị giá nhập khẩu của cả nước. Cán cân thương mại hàng hóa của khối doanh nghiệp FDI năm 2022 lên mức thặng dư 40,42 tỷ USD.

Khu vực FDI chiếm ưu thế trong giá trị xuất nhập khẩu của Việt Nam. Điều này thể hiện sự phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp FDI tại đất nước hình chữ S và đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp này vào nền kinh tế Việt Nam.

Vai trò của khu vực FDI thêm quan trọng, nhất là trong việc nâng cao trình độ công nghệ thông qua chuyển giao công nghệ và chuyển giao kỹ năng quản lý cho người Việt Nam, thúc đẩy sự đổi mới công nghệ đối với các doanh nghiệp trong nước. Từ đó, tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam được nâng lên trong chuỗi giá trị toàn cầu.

Một trong những hạn chế lớn nhất trong hành trình này là sự thiếu liên kết giữa nhóm doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước. Doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia được vào hệ sinh thái và chuỗi giá trị của các doanh nghiệp đầu chuỗi và doanh nghiệp FDI.

Nhóm nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) nhận thấy, sau nhiều năm đẩy mạnh thu hút FDI, Việt Nam chủ yếu hình thành liên kết với một số doanh nghiệp FDI bằng hình thức liên kết dọc, bao gồm liên kết ngược và liên kết xuôi.

Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới. Ảnh internet.
Vị thế mới của Việt Nam trên bản đồ đầu tư thế giới. 

Việt Nam chủ yếu tham gia vào những mắt xích có giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị toàn cầu, đa phần thâm dụng lao động và yêu cầu kỹ thuật thấp. Nhiều doanh nghiệp trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu để thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp FDI.

Trong các dự án FDI, hình thức nhà đầu tư nước ngoài liên doanh với doanh nghiệp trong nước chỉ chiếm 13%, còn lại đều là 100% vốn ngoại, cho thấy rõ việc doanh nghiệp chưa thể theo chân “đại bàng” để cất cánh.

Để vừa thu hút và thúc đẩy mối liên kết giữa các doanh nghiệp Việt với doanh nghiệp FDI, cần chú ý bài toán nâng cao năng lực cạnh tranh và năng suất lao động cho doanh nghiệp trong nước; nhấn mạnh việc thiết lập liên kết vùng. Việc tạo ra sự kết nối giữa các vùng đang trở thành biện pháp quan trọng thúc đẩy phát triển cụm công nghiệp, mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

Tiếp đó là đẩy mạnh chuyển giao công nghệ tiên tiến. Trong đó, Chính phủ cần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật, chính sách liên quan đến đầu tư, chuyển giao công nghệ tiên tiến, thân thiện với môi trường và phát triển bền vững. Về phía doanh nghiệp, cần chủ động hơn trong việc tìm kiếm các cơ hội chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI, bao gồm các thỏa thuận mua bản quyền, phát minh hoặc thương quyền…

Cuối cùng, cần tập trung hoàn thiện chính sách hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu gắn với kết nối sản xuất và cung ứng giữa các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp ở nước ngoài.

Nguồn: Thuong hieu va Cong luan | Liên kết

Tham khảo thêm dịch vụ của SIA | Liên kết

Đưa năng lượng tái tạo trở thành trụ cột kinh tế quan trọng của Việt Nam

Quy hoạch Điện VIII (PDP8) được Việt Nam phê duyệt gần đây đã đặt ra các mục tiêu về năng lượng tái tạo đầy tham vọng vào năm 2030. Các mục tiêu được đề cập trong PDP8 chủ yếu tập trung vào việc thúc đẩy năng lượng tái tạo đồng thời giảm sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu hóa thạch như than đá.

VPUB – Thúc đẩy tiềm năng phát triển điện gió tại địa phương - CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH ĐIỆN BIÊN

Theo các chuyên gia của McKinsey, mục tiêu này khiến Việt Nam đối mặt một vấn đề nan giải đó là các dự án năng lượng tái tạo hiện tại không phải lúc nào cũng có khả năng được cấp vốn do quy định chồng chéo.

Tuy nhiên, điều kiện thị trường hiện tại lại mang đến cho ngành năng lượng Việt Nam một cơ hội có một không hai. Cụ thể, thay vì chỉ tập trung đầu tư vào Trung Quốc, nhiều nhà sản xuất trên thế giới hiện đang tích cực đa dạng hóa chuỗi cung ứng của họ sang các quốc gia láng giềng, trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Việt Nam có thể triển khai nhiều dự án năng lượng tái tạo hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về năng lượng tái tạo của khách hàng thương mại và công nghiệp (C&I), cũng như hỗ trợ cho các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Theo McKinsey, nếu có thể nắm bắt cơ hội này và giải quyết những thách thức đang tồn tại, Việt Nam có tiềm năng dẫn đầu khu vực về công suất lắp đặt các dự án năng lượng tái tạo cũng như khả năng sản xuất năng lượng bền vững.

Là một phần trong thông qua việc thúc đẩy PDP8 cho năng lượng tái tạo, Việt Nam đã cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Để đạt được điều này, Việt Nam cần nhanh chóng tăng cường kết hợp năng lượng tái tạo để có khả năng khử carbon trong ngành điện khoảng 78%.

May mắn là tiềm năng về năng lượng tái tạo ở Việt Nam vô cùng lớn vì đây là quốc gia phù hợp nhất ở Đông Nam Á để phát triển năng lượng gió và mặt trời, với công suất tiềm năng đạt 1.000 gigawatt (GW).

Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên mang lại tiềm năng lớn về năng lượng gió và năng lượng mặt trời

Để nắm bắt được cơ hội, Việt Nam cần tăng cường đầu tư, xây dựng và tích hợp năng lượng mặt trời và năng lượng gió để cho phép quốc gia cung cấp 50 hoặc 100% năng lượng tái tạo (RE50/RE100) theo cách hiệu quả về mặt kinh tế.

Đưa năng lượng tái tạo trở thành trụ cột kinh tế quan trọng của Việt Nam - Ảnh 2.

Mục tiêu công suất nguồn điện của Việt Nam trong Quy hoạch Điện 8 (Đơn vị: Gigawatts – Gwh)

Việt Nam chuyển hướng sang năng lượng tái tạo: Nắm bắt cơ hội dẫn đầu về phát triển bền vững

Nếu không sớm chuyển sang năng lượng tái tạo, Việt Nam có thể sẽ phải đối mặt với những rủi ro sau:

Mất điện liên tục và rủi ro về an ninh năng lượng

Nhu cầu sử dụng điện ngày càng tăng và điều kiện thời tiết khắc nghiệt đã ảnh hưởng không nhỏ đến Việt Nam. Theo McKinsey, năng lượng tái tạo mang lại nguồn an ninh năng lượng độc lập, không phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu.

Gần đây, Việt Nam đã phải đối mặt với tình trạng thiếu điện và mất điện do nắng nóng cực độ, hạn hán và mực nước ở các nhà máy thủy điện thấp kỷ lục. Trước tình hình đó, EVN đã tiến hành cắt điện luân phiên trên khắp cả nước , đặc biệt ở khu vực phía Bắc. Điều này đã ảnh hưởng đến người dân, ngành du lịch và các khu công nghiệp.

Báo cáo của McKinsey nhận định, Việt Nam cần mở rộng phát triển năng lượng tái tạo càng nhanh càng tốt để đạt được cam kết của Chính phủ trong việc đưa phát thải ròng về 0 vào năm 2050 cũng như các mục tiêu được đề cập trong PDP8. Theo đó, PDP8 đặt mục tiêu các nguồn năng lượng gió, mặt trời và các nguồn tái tạo khác (trừ thủy điện), chiếm ít nhất 32% nhu cầu năng lượng của đất nước vào năm 2030.

Nguy cơ mất lợi thế

Nhờ tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng cũng như lực lượng lao động dồi dào, nhiều công ty đã lựa chọn Việt Nam là một giải pháp để đa dạng hóa chuỗi cung ứng thay vì phụ thuộc vào Trung Quốc. Tuy nhiên, theo các chuyên gia của McKinsey, Việt Nam có nguy cơ đánh mất lợi thế này nếu không kịp thời đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng tái tạo ngày một tăng của các doanh nghiệp nước ngoài.

Nhiều nhà sản xuất lớn nhất thế giới đã cam kết sử dụng 100% năng lượng tái tạo cho hoạt động sản xuất của công ty, chẳng hạn như những doanh nghiệp thuộc nhóm sáng kiến toàn cầu RE100 – Chiến dịch nhằm mục đích tập hợp các công ty trong danh sách Global Fortune 500 để cùng thực hiện cam kết sử dụng 100% năng lượng tái tạo.

Nếu không thể đảm bảo đủ năng lượng tái tạo, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ khó có thể đầu tư vào Việt Nam. Vì vậy, dòng vốn đầu tư sẽ đổ vào nhiều hơn nếu Việt Nam có thể cung cấp năng lượng cho nhóm RE100.

Rủi ro từ nền tảng kinh tế hiện nay của Việt Nam

Theo McKinsey, các nền tảng kinh tế hiện nay của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng nếu không triển khai dự án năng lượng Theo McKinsey, các nền tảng kinh tế hiện nay của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng nếu không triển khai dự án năng lượng tái tạo trên quy mô lớn. Lý do bởi các sản phẩm không được sản xuất bởi nguồn năng lượng sạch có thể sẽ phải chịu thêm thuế carbon.

Ví dụ, hơn 10 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp của Việt Nam có thể bị ảnh hưởng bởi các quy định liên quan đến thuế biên giới carbon vào năm 2030. Hơn nữa, nếu các quốc gia khác ban hành các loại thuế tương tự, con số này có thể lên đến 20 tỷ USD. Trường hợp danh sách các sản phẩm sản xuất phải tuân thủ theo quy định được mở rộng ngoài các sản phẩm công nghiệp, ít nhất 200 tỷ USD giá trị kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam có thể gặp rủi ro.

Điện mặt trời - Pin mặt trời

Mối nguy hiểm hữu hình từ biến đổi khí hậu

Việt Nam phải đối mặt với rủi ro hữu hình do biến đổi khí hậu. Trong đó, các thành phố là những khu vực dễ bị tổn thương bởi những rủi ro đến từ biến đổi khí hậu. Chẳng hạn, nguy cơ ngập lụt tại Thành phố Hồ Chí Minh có thể tăng gấp 10 lần cho đến năm 2050. Không chỉ vậy, trong trường hợp mực nước biển dâng lên mức 180cm, 66% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh có thể chìm trong nước. Những rủi ro về biến đổi khí hậu có thể có thể khiến 40% diện tích thành phố đối mặt với tình trạng ngập lụt, dẫn tới thiệt hại về kinh tế và cơ sở hạ tầng có thể lên tới 15-20 tỷ USD.

Nếu Việt Nam không nhanh, cơ hội sẽ thuộc về các nước láng giềng

Trong khi các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam có dấu hiệu tụt hậu thì các nước láng giềng đang bắt đầu đưa ra các giải pháp tiết kiệm chi phí cho các dự án năng lượng tái tạo. Ví dụ, Ấn Độ đã đặt mục tiêu đạt 500 GW công suất năng lượng tái tạo vào năm 2030 và đã ban hành Đạo luật Điện lực năm 2003. Theo đó, quốc gia này đã mở đường cho các doanh nghiệp tiếp cận với các thỏa thuận mở và hợp đồng mua bán điện (PPA).

Samsung đang nhắm đến việc đưa Ấn Độ trở thành trung tâm sản xuất điện thoại thông minh. Không chỉ vậy, Foxconn cũng đang thảo luận để khởi động một nhà máy ở bang Tamil Nadu của nước này.

Malaysia cũng là một ví dụ bên cạnh Ấn Độ. Cụ thể, để đạt được mục tiêu sử dụng 70% năng lượng tái tạo vào năm 2050, quốc gia này đã ban hành các hợp đồng mua bán điện ảo (VPPA) cho phép người tiêu dùng được sử dụng nguồn điện lớn hơn 1 megawatt (MW).

Ngược lại, với mức giá hiện tại, các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam thường không mang lại hiệu quả kinh tế nhất quán, gây bất lợi cho các nhà phát triển. Việt Nam vẫn chưa cho phép các hợp đồng mua bán điện trực tiếp (DPPAs) cũng như chưa thiết lập các cơ chế (bao gồm cả cơ chế đấu giá) để mở đường cho các dự án năng lượng tái tạo. Giá năng lượng cao và tỷ lệ sử dụng năng lượng tái tạo thấp ở Việt Nam có thể dẫn đến gánh nặng tài chính cho người tiêu dùng và nguy cơ mất vốn đầu tư nước ngoài.

Làm thế nào để khu vực công và tư nhân của Việt Nam có thể cùng giải quyết các vấn đề về năng lượng và đảm bảo tương lai kinh tế của Việt Nam?

Bên cạnh những thách thức để phát triển năng lượng tái tạo hiệu quả, những quan sát và nghiên cứu của chúng tôi cho thấy rằng Việt Nam có thể giải quyết vấn đề nan giải về năng lượng và đảm bảo tương lai kinh tế thông qua việc thúc đẩy hợp tác giữa khu vực công và tư nhân.

Sáu phương án thực tiễn tổng quát tốt nhất có thể mở khóa năng lượng tái tạo bao gồm:

Thứ nhất, chấp thuận cơ chế DPPAs để cho phép giao dịch năng lượng tái tạo bên ngoài cơ sở. Điều này có thể đảm bảo khả năng sinh lợi và sinh lời của năng lượng tái tạo thông qua việc đo lường mạng và truy cập mở. Bên cạnh đó, DPPAs sẽ loại bỏ các hạn chế, người mua có thể mua năng lượng sạch trực tiếp từ các nhà phát triển tư nhân (tức là ở bên ngoài địa điểm của người tiêu dùng) thay vì mua năng lượng hỗn hợp từ EVN. Điều này có thể khuyến khích các nhà phát triển ở lại và đầu tư thêm vào Việt Nam.

Thứ hai, cam kết quy định và mục tiêu rõ ràng. Cần có quy định để tạo ra sự công bằng trong ngành và tính minh bạch cho các nhà phát triển. Cụ thể:

(1) Sửa đổi và cải thiện các hợp đồng mẫu về mua bán điện (PPAs) trong việc bồi thường khi chấm dứt và cắt giảm. Ví dụ trong trường hợp Tập đoàn Điện lực Việt Nam không thể mua năng lượng bao tiêu.

(2) Tạo cơ chế trao thầu các dự án năng lượng tái tạo mới bao gồm phân bổ địa điểm và giá bao tiêu, đặc biệt đối với điện gió ngoài khơi.

(3) Thiết lập các mục tiêu phát triển hydro và các nhiên liệu thay thế khác, cùng với các chính sách ưu đãi cho các ngành này.

Thứ ba, đầu tư vào lưới điện. Các nhà phát triển và nhà đầu tư có thể bị thu hút bởi các dự án mới nếu lưới điện được cập nhật để cho phép các dự án JETP và các khoản đầu tư khác. Khả năng khu vực tư nhân tham gia phát triển và vận hành lưới điện cũng có thể giúp Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư.

Thứ tư, hoàn tất đàm phán với nhiều Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á để xuất khẩu năng lượng tái tạo. Khu vực công có thể xác định các quy tắc cho các đơn đăng ký yêu cầu đề xuất và các biên bản ghi nhớ với các quốc gia lân cận.

Thứ năm, thí điểm các khu công nghiệp RE100 tại các tỉnh đang đóng vai trò là “ngọn hải đăng” dẫn đường. Các địa phương có thể nắm giữ vị trí dẫn đầu về năng lượng tái tạo và thu hút FDI bằng cách khuyến khích thành lập khu công nghiệp RE100. Điều này đòi hỏi sự hợp tác của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các đơn vị liên quan để thu hút cả các nhà phát triển năng lượng tái tạo và khách hàng C&I.

Thứ sáu, giới thiệu các yếu tố hỗ trợ chính khác. Khi đến giai đoạn thực hiện, Việt Nam có thể xem xét áp dụng các biện pháp như thuế carbon và thị trường carbon càng sớm càng tốt, từ đó khuyến khích sử dụng năng lượng tái tạo với mức giá tương đối thấp hơn.

Những bước đi táo bạo của khu vực tư nhân

Phối hợp với khu vực công, các doanh nghiệp tư nhân có thể hành động ngay lập tức để nắm bắt cơ hội phát triển. Họ có thể xem xét bốn quyết định chiến lược lớn:

Thứ nhất, các nhà phát triển cam kết xây dựng đường dẫn điện GW. Điều này có thể giúp các nhà cung cấp đầu tư vào hệ sinh thái chuỗi giá trị địa phương và giảm chi phí thông qua quy mô kinh tế. Ngoài ra, quyết định này có thể sẽ khuyến khích chính quyền địa phương phát triển lực lượng lao động địa phương.

Thứ hai, khách hàng C&I cam kết bao tiêu thông qua DPPAs. Khách hàng của C&I có thể đảm bảo nhu cầu và mức tiêu thụ, giúp các dự án RE100 ban đầu ngay lập tức có khả năng được cấp vốn—đặc biệt nếu họ sẵn sàng trả phí bảo hiểm xanh cho các điện tử tái tạo 24/7.

Thứ ba, các nhà phát triển và nhà cung cấp giảm chi phí thông qua thiết kế tiêu chuẩn hóa. Khi các nhà phát triển đã cam kết với quy mô của quy trình, họ có thể chuẩn hóa một thiết kế được tối ưu hóa trên các địa điểm khác nhau, cho phép vận hành thử nhanh chóng và giảm chi phí.

Thứ tư, các nhà phát triển và người tiêu dùng nắm bắt hạ nguồn công nghệ xanh. Các nhà phát triển có thể cân nhắc đầu tư vào (hoặc tạo ra) công nghệ xanh để đẩy nhanh hành trình sử dụng năng lượng tái tạo, chẳng hạn như hydro xanh hoặc sạc xe điện. Ngoài ra, người tiêu dùng có thể cam kết sử dụng công nghệ xanh, chẳng hạn như mức tiêu thụ và giá tiêu thụ hydro.

Sức mạnh của sự hợp tác

Với việc khu vực công và tư nhân hoạt động song song, Việt Nam có thể đạt được RE50 hoặc RE100 về mặt kinh tế trong ba khoảng thời gian.

Thứ nhất, trong vòng 12-18 tháng tới, quốc gia có thể thiết lập khung pháp lý và cam kết thực hiện, triển khai các mô hình thí điểm PPAs và DPPAs, kèm theo cam kết công khai về RE50 và RE100.

Thứ hai, Việt Nam có thể tăng đáng kể công suất lắp đặt năng lượng tái tạo và tiếp tục thu hút FDI trong vòng 5-7 năm tới. Điều này có thể đạt được bằng cách chuyển sang RE50 hoặc RE100 ở một số tỉnh và tạo điều kiện cho các nguồn năng lượng tái tạo dư thừa .

Thứ ba, trong vòng một thập kỷ, quốc gia này có thể rút ngắn thời gian đạt được mục tiêu đưa phát thải ròng về 0 bằng việc sử dụng năng lượng tái tạo trên khắp đất nước. Thực hiện được các khuyến nghị trên, Việt Nam có thể dẫn đầu Đông Nam Á, trở thành nền kinh tế năng lượng tái tạo có giá trị cao nhất.

Ưu nhược điểm của năng lượng tái tạo: Nhìn từ thực tế

Mặc dù hành trình này còn nhiều thách thức, nhu cầu cấp thiết của Việt Nam trong việc phát triển nguồn năng lượng tái tạo nhằm đạt được các mục tiêu đầy tham vọng của PDP8 có thể được đáp ứng. Điều này có thể đạt được khi khu vực công mở đường bằng cách thiết lập các quy định rõ ràng và giảm thiểu rủi ro dự án cho các nhà phát triển, đồng thời khu vực tư nhân cam kết chuyển đổi quy mô lớn với các dự án nhiều GW, tạo ra hệ sinh thái năng lượng tái tạo tại địa phương ở Việt Nam, và sẵn sàng kéo đòn bẩy giảm chi phí.

Nguồn:Cafe F |Liên kết

Tham khảo dịch vụ của SIA|Liên kết

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ

Ông Jensen Huang – Chủ tịch, CEO Tập đoàn Nvidia – đánh giá Việt Nam đã sẵn sàng cho sự phát triển trí tuệ nhân tạo (AI) và nhấn mạnh sẽ hỗ trợ Việt Nam trong ngành công nghiệp bán dẫn.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 1

Sáng nay, ông Jensen Huang, Chủ tịch, Tổng giám đốc Tập đoàn Nvidia, tập đoàn sản xuất chip lớn nhất thế giới, thăm và làm việc tại Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) cơ sở Hòa Lạc.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 2

Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng và Chủ tịch Nvidia Jensen Huang cùng đi xe điện, tham quan NIC cơ sở Hòa Lạc.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 3

Bộ trưởng cùng Chủ tịch Nvidia tham quan khuôn viên NIC trước khi bước vào tọa đàm.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 4

Ông Jensen Huang dùng điện thoại ghi lại quang cảnh.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 5

“Chúng ta đang trải qua một giai đoạn cực quan trọng trong ngành công nghệ. Một làn sóng mới đang tới và có thể là làn sóng lớn nhất từ trước tới nay”, ông Jensen Huang chia sẻ.

Tại tọa đàm, ông Jensen lý giải để có thể tận dụng được những làn sóng mới này, chúng ta cần 3 thành phần, gồm:

Việt Nam số

“Việt Nam đã sẵn sàng số hóa 100%. Các bạn đã có nhiều thập kỷ số hóa và người dân sẵn sàng sử dụng các nền tảng di động. Đó chính là tài sản về ngôn ngữ, văn hóa”, Chủ tịch Nvidia nói.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 6

Đội ngũ nhân sự

Theo ông Jensen, Việt Nam cũng có yếu tố thứ 2 đó là đội ngũ kỹ sư phần mềm có năng lực tốt.
“Trí tuệ nhân tạo là phần mềm, mà phần mềm do con người tạo nên. Việt Nam đang sẵn có nguồn tài nguyên giàu có là các kỹ sư phần mềm và các kỹ sư này đã sẵn sàng nhảy sang bước tiến mới như AI”, ông Jensen chia sẻ.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 7

Hạ tầng AI 

Yếu tố thứ ba là hạ tầng vì AI đòi hỏi các siêu máy tính xử lý và biến dữ liệu thành trí thông minh.

“Trong tương lai, các bạn cần siêu máy tính. Chúng ta đang sản xuất trí tuệ với các kỹ sư người Việt Nam, cho chính Việt Nam. Điều này đòi hỏi phải có hạ tầng AI”, ông nhấn mạnh.

Việt Nam có nền giáo dục và hạ tầng tốt, chỉ cần khích lệ các thế hệ mới để bước vào thế giới AI, khích lệ các chuyên gia, kỹ sư Việt Nam ở nước ngoài về quê hương.

“Vấn đề hiện giờ là cần năng cao kỹ năng và xây dựng 1 triệu chuyên gia AI. Đây sẽ là đội ngũ hùng hậu nhất trên thế giới. Chúng tôi sẵn sàng hợp tác với Việt Nam để nâng cao kỹ năng và hạ tầng AI”, ông Jensen khẳng định.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 8

Tuy nhiên, sau khi đã có đủ thành phần, Việt Nam cần có tầm nhìn và cam kết mạnh mẽ trong việc phát triển công nghệ mới. Đại diện Nvidia cho rằng từ đội ngũ kỹ sư hiện tại, Việt Nam có thể đào tạo nâng cao năng lực để phục vụ phát triển AI và Nvidia sẽ cùng tham gia quá trình này.

“Làn sóng mới này thực sự rất lớn, nhưng cũng rất nhanh. Chỉ cần 1 năm thôi, AI chúng ta vừa nhìn thấy đã xuất hiện trên tất cả câu chuyện của mọi người trên thế giới. Khi nó đang phát triển rất nhanh thì chúng ta cũng phải hành động rất nhanh”, Chủ tịch Nvidia cười nói.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 9

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng đề nghị Nvidia nghiên cứu, triển khai dự án đầu tư về bán dẫn và trí tuệ nhân tạo tại Việt Nam. “Chính phủ Việt Nam cam kết tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Nvidia hoạt động tại đây”, ông nói.

Bộ trưởng cũng đề nghị Nvidia xem xét xây dựng cơ sở nghiên cứu và phát triển, phòng thí nghiệm về thiết kế chip bán dẫn tại khu công nghệ cao của Việt Nam.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 10

Đồng thời, Nvidia cũng được đề nghị tham gia tư vấn, hỗ trợ các cơ sở đào tạo về nguồn nhân lực, chuyên gia xây dựng các chương trình đào tạo, thực hành trong lĩnh vực bán dẫn, trí tuệ nhân tạo và tạo điều kiện cho các kỹ sư, học viên của Việt Nam có thể tham gia thực tập, làm việc tại Nvidia.

Chủ tịch Nvidia hé lộ 3 yếu tố giúp Việt Nam kịp đón làn sóng công nghệ - 11

Ngày 9/12 sau khi tới Hà Nội, tỷ phú công nghệ mặc thoải mái với áo phông, quần jean đen và cùng các nhân viên thưởng thức ẩm thực đường phố Việt. Ông cũng ghé một quán khác ở phố Hàng Nón và ăn phở bò, uống nước dừa.